Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Những Nẻo Đường Hy Vọng Qua Các Chứng Nhân: ĐHY Phanxicô – Chân phước Gioan Phaolô II

Những Nẻo Đường Hy Vọng Qua Các Chứng Nhân: ĐHY Phanxicô – Chân phước Gioan Phaolô II

Lời ngỏ: Đời sống hôm nay đang ở trong tình trạng mất phương hướng với nhiều ưu tư, nỗi lo, tuyệt vọng. Trước một thế giới đa chiều, chúng ta dễ bị rơi vào vòng xoáy của thời đại. Để tìm đến những nẻo đường hy vọng và chắc chắn, để phân định được ý nghĩa cuộc sống, Ban Tu sĩ Giáo phận Xuân Lộc đã tổ chức buổi toạ đàm với chủ đề: "Những Nẻo Đường Hy Vọng Qua Các Chứng Nhân: ĐHY Phanxicô – Chân phước Gioan Phaolô II", do Soeur Anna Hoàng Thị Kim Oanh (Tiến sĩ thần học, phụ trách giáo tập dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp, giáo sư thần học tu đức, đời sống thánh hiến tại Học viện Liên dòng nữ Đa Minh) thuyết trình.
*****
I. VẪN CÒN NHIỀU MÂU THUẪN TRONG CUỘC SỐNG
Trước khi triển khai chủ đề Chứng nhân hy vọng, thuyết trình viên muốn cùng các tham dự viên nhìn vào thế giới hôm nay.
1. Khao khát nhiều mà chẳng được thoả mãn
-  Khao khát sự thật, nhưng dối trá vẫn lên ngôi
-  Khao khát hoà bình, những chẳng bao giờ có hoà bình đích thực.
-  Khao khát tình yêu, nhưng tình yêu vẫn vắng bóng, thiếu sự cảm thông nên cuộc sống vẫn bế tắc
2. Thực tế, xem ra còn nhiều nghịch lý trong việc tìm kiếm hạnh phúc.
Ngày nay, người ta đề cao hạnh phúc, đề cao phẩm giá con người, nhưng đi sâu vào cuộc sống và tâm thức, chúng ta thấy có cái gì đó nghịch lý và rất mâu thuẫn.
Những tiện nghi văn minh tân tiến nhất, nhằm phục vụ hạnh phúc con người, chỉ đưa con người đến chỗ bất hạnh. Chính những nhu cầu vật chất tối thượng ấy đưa con người đến tán tận lương tâm, phá đổ nhân phẩm. Thí vụ, điển hình trong vài tuần qua có sự kiện bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, bác sĩ chuyên khoa của bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), ông đã ngang nhiên mở thẩm mỹ viện mà không có giấy phép. Bác sĩ thẩm mỹ này thay vì làm đẹp cho thân chủ, lại bị tai nạn nghề nghiệp dẫn đến cái chết của thân chủ. Điều làm cho người ta ghê tởm vì ông đã có hành vi tán tận lương tâm đem quẳng thi thể thân chủ xuống sông Hồng.
Theo dõi thông tin đại chúng, chứng kiến sự băng hoại của con người, nền văn minh sự chết khống chế văn minh sự sống. Họ không còn coi trọng giá trị cao quí đời sống hôn nhân, dẫn đến nhiều gia đình bị đổ vỡ: ly dị, đa thê, đa phu, phá thai bừa bãi…
Chúng ta được mời gọi để trả lời cho những ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta (1Pr 3,15). Ngày hôm nay giữa một thế giới đang bị khổ đau, bạo lực và nghèo đói, ơn gọi chứng nhân cho niềm hy vọng của chúng ta vừa khó khăn, vừa cấp thiết hơn bao giờ hết. May thay, Chân phước Gioan Phaolô II và Đức hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận để lại cho chúng ta những chứng nhân rất sống động về niềm hy vọng.
II. NỀN TẢNG HY VỌNG ĐẶT Ở NƠI CHÚA
Thông điệp Spe salvi, đức Bênêdictô XVI đã viết: niềm hy vọng Kitô giáo phát xuất từ niềm tin. Nói khác đi, có tin mới có hy vọng. Đức tin là hy vọng. Hạnh phúc của con người tuỳ thuộc nơi thái độ tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa là Cha nhân lành (SP.2).
1. Cầu nguyện, trường của hy vọng
“Bối cảnh thiết yếu đầu tiên cho việc học hỏi hy vọng là cầu nguyện. Khi không ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn có thể tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi vẫn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người. Chúa có thể giúp tôi. Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô đơn hoàn toàn… nếu tôi cầu nguyện thì tôi không bao giờ hoàn toàn đơn côi.”
“Chỉ có Chúa là người bạn luôn trung thành. Điều này hoàn toàn là sự thật, một sự thật mà qua bao thế kỷ, những người bạn của Thiên Chúa đã chứng minh điều đó. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có nói: Con tìm bạn để an ủi và nâng đỡ con khỏi cô đơn. Sau con không tìm người bạn không bao giờ phản bội con và có thể ở với con liên lỉ, bất cứ nơi nào?”
“Đây là câu nói chắt lọc từ kinh nghiệm rất sống động của Đức hồng y trong những năm tù đày, khi tất cả những người thân không có bên cạnh để có thể chia sẻ vui buồn. Trong hoàn cảnh này, chỉ có Chúa là người bạn tuyệt vời, luôn trung tín và yêu thương. Trong cảnh biệt giam, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, nhưng Đức hồng y có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa để nuôi dưỡng niềm hy vọng. Sau khi ra khỏi tù, người đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới (SP.32)”
Thật vậy, chỉ có cầu nguyện mới đem lại sức mạnh và làm cho kẻ lữ hành đón nhận tất cả như một hồng ân và can đảm đi đến cùng. Trong bài nói với các bạn trẻ, Đức hồng y Phanxicô quả quyết: “Một người thánh mà không cầu nguyện là thánh giả. Con đợi xem, họ sẽ sụp đổ không mấy hồi.” (ĐHV,131)
Hơn thế nữa, nguyên nhân của những đổ vỡ trong ơn gọi đều đến từ việc xa lìa đời sống cầu nguyện: “Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có lý do chính: họ bỏ cầu nguyện từ lâu”.
Chính vì thế, ngài nhắn nhủ anh chị em tu sĩ và linh mục: “Đặc biết với các tâm hồn hoàn toàn hiến dâng, đáng lẽ trong căn cước họ phải khai: nghề nghiệp: cầu nguyện. Các nghề khác thế gian đều làm cả. Thế gian đòi hỏi con giữ đại lý và khẩn nài con: xin cầu nguyện cho tôi.” (ĐHV 146)
Nơi Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II qua tác phẩm: Tôi sống với một vị thánh – tựa đề cuốn sách được viết bởi thư ký riêng của Đức giáo hoàng người Ba Lan, tác giả cho biết: mỗi sáng Đức Gioan Phaolô II nhìn vào tấm bản đồ thế giới và chọn một quốc gia. Suốt ngày đó, ngài cầu nguyện cho đất nước và dân tộc này. Ngài gọi đó là “địa lý của lời cầu nguyện.”
2. Điểm chung của hai mẫu gương hy vọng
a. Lòng sùng kính bí tích Thánh Thể
Đối với Đức hồng y Thuận, ngài đã dành 45 số trong ĐHV để nói đến Thánh lễ và cũng là tựa đề của Chương IV sách tự thuật: Năm chiếc bánh và hai con cá. “Sức mạnh độc nhất của tôi là Thánh Thể.”
“Người thánh là người tiếp tục thánh lễ suốt ngày.” (ĐHV 350). ĐHY có những ý tưởng rất sâu sắc trong việc hiệp thông của mỗi người chúng ta trong hy tế cứu độ: “Mỗi lần dâng thánh lễ là mỗi lần dang tay đóng đinh con lại trên thánh giá, và uống cạn chén đắng với Chúa. Đây không có chỗ cho khán giả.” (ĐHV 357)
Hội thánh dạy cử hành nghi thức khấn dòng trong thánh lễ để con ý thức và thực sự hiến dâng đời con làm hy lễ toàn thiêu với Chúa Giêsu trên bàn thánh. Trong mỗi thánh lễ, con hãy tuyên thệ lại lời khấn với tất cả tâm hồn, với tất cả ý nghĩa của một Tân Ước Vĩnh Cửu. (ĐHV 387)
Còn với Đức chân phước Gioan Phaolô II, từ nhỏ, cậu bé Karol đã chứng tỏ một tâm tình đạo đức sâu xa. Mỗi sáng trước khi đến trường, cầu luôn luôn ghé lại nhà thờ cầu nguyện trước Thánh Thể. Một người bạn học chung với Woityla đã ghi trong hồi ký của mình: “Cứ mỗi lần ôn xong một bài học, Karol rời khỏi phòng và một lúc sau mới trở lại. Có lần, vì cánh cửa không được đóng kín, tôi thấy Karol đang quỳ cầu nguyện. Karol thể hiện lòng đạo đức một cách rất kín đáo.”
Lòng đạo đức của gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Karol, chính cậu đã xác nhận: “Chính mẹ tôi đã dạy cho tôi cầu nguyện và say mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Sau khi mẹ tôi chết, rồi tiếp theo đó người anh cả cũng chết theo, và tôi sống cô đơn với cha tôi, một người có lòng đạo đức thâm sâu. Hằng ngày, tôi có thể quan sát thấy lối sống khắc kỷ của người. Trước đây, người theo binh nghiệp, và sau khi mẹ tôi qua đời, cuộc sống của người trở thành lời cầu nguyện liên lỉ. Gương sáng của người đủ để dạy cho tôi về kỷ luật và ý thức bổn phận.” (Hồng ân và huyền nhiệm, Tr.18)
Khi nhận lời làm Giám mục Phụ tá Giáo phận Cracovia vào năm 1958, ngài đã ghé vào nhà nguyện dòng Ursuline, sấp mình cầu nguyện trước Thánh Thể 8 tiếng đồng hồ (Ấn tượng Gioan Phaolô II, Tr.54).
Khi đã lên ngôi Giáo hoàng, dù bận bịu biết bao công việc, mỗi ngày người đã dành nhiều giờ trước Thánh Thể, trung bình 7 giờ mỗi ngày. Ngài nói: cả thế giới có quyền chờ đợi nhiều nơi Đức giáo hoàng. Vậy, ĐGH sẽ không bao giờ cầu nguyện cho đủ. Khi phải viết về những giáo huấn liên quan đến đức tin, ngài thường quỳ gối trước Thánh Thể, gần giống như thánh Thomas Aquino dựa đầu vào Nhà tạm trước khi nói về Thánh Thể. (Đối thoại với Đức Gioan Phaolô II, Tr.52)
b. Lòng sùng kính Đức Maria và niềm phó thác hoàn toàn cuộc đời cho Mẹ
Nơi ĐHY Phanxicô, bắt nguồn từ gia đình của ngài, từ các linh mục giáo sư chủng viện, các vị thầy dạy ngài yêu mến Mẹ Maria, ngài viết: “Con hãy tìm giá trị của một đời sống thiêng liêng, một linh đạo sâu xa nơi Mẹ Maria. Mẹ hoạt động, nhưng tất cả mọi cử chỉ và tư tưởng dù vụn vặt nhất cũng vì Chúa Giêsu. Mẹ không thể có một giây phút nào ngoài Chúa Giêsu được. Đời Mẹ là một vực sâu vô tận của nội tâm. Trong Mẹ, hoạt động và chiêm niệm không tách lìa: chiêm niệm giữa hoạt động, hoạt động do chiêm niệm.” (ĐHV 937)
Sau khi bị bắt ngày 15/08/1975 và bị đưa ra quản thúc tại làng Cây Vong, Nha Trang, ngài ra đi với hai bàn tay trắng, chỉ có trong túi áo một tràng chuỗi Mân Côi. Trên đoạn đường từ Sài Gòn ra Nha Trang, ngài chỉ lần hạt và đọc kinh “Hãy nhớ”. Kinh này được chính mẫu thân của ngài đã dạy cho khi vừa bập bẹ tập nói, đã giúp ĐHY nuôi dưỡng niềm hy vọng, đức cậy trông của ngài trong suốt cuộc đời, nhất là trong thời gian gặp khó khăn, gian khổ, bệnh tật và mất tự do. Tất cả đều nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ.
Ngài luôn cầu nguyện cho mình: “Lạy Mẹ, Mẹ muốn con làm gì cho Mẹ? Con sẵn sàng thi hành mệnh lệnh của Mẹ, ngày nào Mẹ thấy con không còn ích lợi gì cho Giáo hội nữa thì xin Mẹ cho con được ơn chết trong tù. Nếu Mẹ thấy con còn có thể làm được gì cho GH thì xin Mẹ cho con được ra khỏi tù vào một trong những ngày lễ kinh Đức Mẹ. Và ngày 21/11 lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, ngài được trả tự do.”
Chân phước Gioan Phaolô II cũng rất sùng kính Mẹ Maria. Ngay từ tuổi thơ, Karol đã tham gia “chuỗi Mân Côi sống”. Năm 15 tuổi nhận làm thành viện hội thanh niên sùng kính Đức Mẹ, 6 tháng sau được bầu làm trưởng nhóm. Châm ngôn ngài chọn cho cuộc đời Giám mục của mình là: “Totus Tuus” (tất cả của con thuộc về Mẹ). Ngài đã biểu lộ lòng biết ơn Mẹ một cách rất cụ thể trong việc trao tặng Đức Mẹ chiếc nhẫn Giám mục một vài ngày trước khi khai mạc sứ vụ thánh Phêrô.
Ngài đã được Đức Mẹ cứu sống cách lạ lùng trong ngày 13/05/1981. Đức GP II rất trung thành với chuỗi Mân Côi, ngài lần hạt mỗi ngày và mỗi thứ bảy đầu tháng, ngài lần hạt chung với giáo dân tại hội trường Phaolô VI. Ngài đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ:
-   Thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Độ) ngày 25/03/1987
-   Tông tư Rosarium Virgilis Mariae (Kinh Rất Thánh Mân Côi) ngày 16/03/2002
Chính ngài đã thêm vào năm mầu nhiệm sự sáng và công bố năm Mân Côi từ 10/2002 đến 10/2003.
III. CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM HY VỌNG
1. Đức Hồng y Phanxicô, người lữ hành trên đường hy vọng
Trong dịp mở án phong thánh cho ĐHY của Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, Đức Benêdictô XVI đã tóm lược cuộc đời và nhân đức của Đức cố hồng y bằng những lời sâu sắc và ngắn gọn sau đây: “ĐHY Thuận là một con người của Hy vọng. Ngài sống bằng hy vọng và ngài phổ biến hy vọng cho tất cả những ai ngài gặp. Chính nhờ năng lực thiêng liêng này mà ngài chống lại được tất cả những khó khăn thể lý cũng như tinh thần.”
Đối với ĐHY niềm hy vọng được thể hiện qua khẩu hiệu Giám mục của ngài: “Vui mừng và hy vọng.” Con đường hy vọng mà ĐHY đã sống, là tất cả học thuyết về niềm hy vọng Kitô giáo. Nghĩa là ngài không sống một con đường hy vọng nào khác ngoài con đường hy vọng mà Giáo hội, dân Thiên Chúa cưu mang và sống qua bao thế hệ, qua các thời đại lịch sử. Con đường hy vọng không phải là một ảo tưởng của con người, cũng không phải là con đường làm cho con người trở nên thụ động, chán nản, cầu an, khoanh tay chờ một hạnh phúc mai sau. Ngược lại, con đường hy vọng đó chính là tin vào Đức Kitô Tử nạn và Phục sinh.
Sống hy vọng cũng là sống trọn vẹn thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại, sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn. Đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất, con thấy đơn sơ không phải khó.” (ĐHV 997)
Qua tấm gương ĐHY, chúng ta thấy rằng đau khổ thanh luyện niềm hy vọng của con người. Nếu đau khổ đã từng bóp nghẹt niềm hy vọng nơi một số người, thì ngược lại nơi một số người khác nhờ đau khổ mà niềm hy vọng của họ được thanh luyện.
2. Đức Gioan Phaolô II, mẫu gương tuyệt vời
Câu nói đầu tiên khi Cơ mật viện chọn ngài làm Giáo hoàng: Đừng sợ.
Ngài đối diện tương lai một cách hăng hái và vững vàng. Ngài mời gọi Giáo hội tiếp tục loan báo niềm hy vọng vào một thế giới tốt đẹp hơn, vì Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ. Chính vì yêu thương chúng ta người đã cất đi sự sợ hãi của chúng ta. Ngài đã yêu thương và giúp chúng ta yêu thương cũng như giúp chúng ta sống hy vọng.
Chính với niềm tin sâu sắc này, niềm hy vọng đặt neo vững chắc nơi tình thương của Chúa. Ngài đã can đảm lãnh đạo Giáo hội dù bị ám sát, dù phải chiến đấu trong bệnh tật, năm lần phải giải phẫu và những năm cuối đời ngài mang một căn bệnh Parkingson. Trước những thế lực thù địch muốn chống phá Giáo hội, ngài đã mạnh mẽ và tín thác vào Chúa, vững vàng lèo lái con thuyền Giáo hội vượt qua những phong ba bão táp của thế gian.
Thay lời kết: hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời những ai cật vấn anh em về niềm hy vọng (1Pr 3,15).
-  “Hãy hy vọng luôn luôn, đừng chán nản vì những khó khăn nội bộ, ngay trong việc tông đồ.” (ĐHV 976)
-  Những giây phút hy vọng sẽ dệt đời ta thành những chứng nhân của niềm hy vọng: “chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.”
Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.
(ĐHY 978)
Trong phần thảo luận
-   Cha cố Vinhsơn Bùi Đức Sinh, O.P đã chia sẽ những cảm nhận của mình trong chín năm tù đày nhờ niềm xác tín vào Chúa mà cha đã đứng vững trước những khó khăn thử thách. Cha chia sẻ: tôi bị bắt vào ngày Thứ Bảy tuần thánh năm 1978, có nghĩa là hôm sau là lễ Phục Sinh. Các bạn tù trong phòng đón nhận tôi như niềm vui của Chúa Kitô Phục Sinh. (Đa số các bạn trong phòng là người công giáo). Vì họ tin rằng từ nay họ sẽ có thể lãnh Bí tích Giao hoà và đón nhận Thánh Thể Chúa.
Như thánh Phaolô, người tù của Đức Kitô, cha Vinhsơn đã sống những năm trong tù như là Chứng Nhân Của Lời. Trong tù ngài đã làm được rất nhiều việc: trước hết làm cho các bạn phấn chấn, tin tưởng vào Chúa, không lo sợ một tương lai đen tối đến với mình. Qua cách sống gần gũi với các bạn tù, ngài đã trở nên người anh em của Chúa Kitô giữa các bạn bè lương cũng như giáo.
-   Cha Phêrô Nguyễn Minh Thắng, OH đang trong thời gian học thần học tại Đa Minh Học viện, cha đã bị tai nạn giao thông lấy mất một chân. Chân cha bị cưa trên đầu gối và tất nhiên phải dùng chân giả. Cha vững tin vào sự quan phòng của Chúa và chấp nhận tai nạn đó như một thử thách cho đời sống đức tin. Trước thái độ lạc quan và tin tưởng nhà dòng và học viện vẫn tiếp tục để cha theo học. Cha đã lãnh tác vụ linh mục vào ngày 10/12/2008. Cha đã thi hành chức vụ linh mục theo đoàn sủng của dòng trợ thế thánh Gioan Thiên Chúa, chăm sóc các bệnh nhân, an ủi, khích lệ họ sống niềm tin, trao ban các bí tích và thánh lễ hằng ngày. Cha vẫn xác tín vào tình thương của Chúa và hằng ngày cha chân thành chia sẻ và gần gũi với những người khổ đau, tật nguyền như mình.
W.OPVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét