Thứ Ba, 23 tháng 3, 2021

DÒNG ĐỨC BÀ TRUYỀN GIÁO : NHẬT KÝ GIA LAI.

 


DÒNG ĐỨC BÀ TRUYỀN GIÁO : NHẬT KÝ GIA LAI. PHẤN 1 + 2 + 3.

NHẬT KÝ GIA LAI

(1)

Gia Lai, ngày …tháng…năm…

 

Sau những ngày sống sung mãn với Chúa và thao luyện tâm hồn qua tuần Linh Thao với sự hướng dẫn của cha Gioan Baotixita.SJ, tôi cảm nhận tiếng Chúa gọi mời “hãy biến đổi cuộc sống, đến gần Chúa hơn và nên giống Chúa hơn”. Tiếng Chúa thôi thúc tôi: “Hãy Yêu Chúa Giêsu bằng cuộc sống thực tế”.  Thánh lễ Tạ Ơn kết thúc tuần linh thao, Chúa đã cất lời mời tôi như các tông đồ xưa; hãy ra đi “từng hai người một, vào các làng mạc…”

Ngày xưa, các môn đệ ra đi chắc chắn không như chúng tôi bây giờ, các ngài chẳng phải ngồi trên xe suốt mười ba tiếng đồng hồ, lên bao cái đồi, xuống bao cái núi và đi mãi vòng quanh những đồi cùng núi… cứ đi mãi, đi mãi mà chẳng tới nơi …

Suốt mười ba tiếng đồng hồ lăn lóc trên xe, tôi nhận ra rằng: “để đáp lại một tiếng gọi thật không dễ dàng”. Nếm “mùi say xe” đến nhừ tử, sự mỏi mệt làm tôi nản chí, lúc này thân xác tôi rã rời … tôi thấy yêu Chúa sao mà khó đến thế, nhưng tất cả như tan biến khi xe dừng ở làng Pleirongolkhop.

Bước xuống xe tôi cảm thấy mình thật hạnh phúc, chân tôi đang chạm đến vùng đất truyền giáo, lúc này, trong tôi trào dâng cảm giác thật thánh thiêng. Hình ảnh con tàu đưa Mẹ Euphrasie Barbier cặp bến Christchurch như ẩn hiện trong tôi. Khi vừa bước xuống khỏi tàu Mẹ đã phủ phục ngay trên mảnh đất truyền giáo và thốt lên: “Tâm hồn con mãn nguyện! Xin Chúa chúc lành cho mảnh đất truyền giáo yêu quý này…

Lúc này trong tôi rộn rã niềm vui như được sống lại cảm nghiệm vui sướng của Mẹ Euphrasie Barbier, niềm vui được đặt chân xuống vùng đất truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, tôi đang kinh nghiệm về sự nhỏ bé với sức khỏe mong manh của Mẹ Euphrasie Barbier, vì tôi cũng rất mệt mỏi và rã rời thân xác, nhưng với lòng nhiệt thành, sự yêu mến và can đảm chỉ sống cho một mình Thiên Chúa, và được tham dự vào Sứ Vụ Thần Linh.

Từ sâu thẳm nơi tâm hồn, tôi nghe như Mẹ đang gọi mời tôi hãy sống cho Thiên Chúa trong ơn gọi nữ tu thừa sai: Hãy sống thật nhiệt thành và đầy lòng yêu mến, hãy sống như tôi chỉ còn được sống trong lúc này thôi. Chính lúc nghe tiếng Mẹ Euphrasie Barbier gọi mời như thế, sự mệt mỏi trong tôi đã nhường chỗ cho lòng yêu mến Chúa và nhiệt thành vui tươi để sống với Chúa.Tôi cảm thấy một sức mạnh lan đi khắp người tan hòa với sự hãnh diện và lời tạ ơn Chúa vì tôi được là con cái của Mẹ Euphrasie Barbier trong ơn gọi nữ tu thừa sai.

NHẬT KÝ GIALAI

(2)

Làng Plei Bla, ngày …tháng…năm…

Lớp học tiếng Bahnar với chú Giớp bắt đầu vào buổi trưa, chiều đến , Cha Phaolô đưa chị em chúng tôi vào Plei Bông tham dự Thánh Lễ khánh thành tượng đài Đức Mẹ của làng. Lời ca tiếng hát với những điệu múa nhịp nhàng nhưng rất sốt sắng của dân làng trong Thánh Lễ khiến chúng tôi thấy được Thiên Chúa đang hiện diện cho dù tôi chẳng hiểu được một lời nào, nhưng tôi tin rằng đó là lời kinh nguyện đẹp nhất mà họ dâng lên Thiên Chúa.

Sau Thánh Lễ chúng tôi làm quen với dân làng bằng những nụ cười, câu chào hỏi bằng tiếng Bahnar bập bẹ và ngọng nghịu nhưng xem ra mọi người đều hiểu, ai nấy cười nói “tay bắt mặt mừng” như đã quen nhau từ lâu lắm rồi. Những bàn tay chai cứng, thô sần của những người già, bàn tay nhỏ xíu mềm mại của các trẻ thơ cứ hòa quyện bên nhau, những tiếng nói nụ cười tươi vui xem ra thỏa mãn vì tình yêu thương nhau rất chân tình… nhưng sao trong tôi lại dấy lên cảm giác đơn độc, mặc cảm nghèo nàn. Tôi thấy mình nghèo từ cách diễn đạt đến lời nói, nghèo cả vật chất lẫn tinh thần. Chúng tôi quá nghèo nên chẳng biết làm sao để đến với nhau, ngôn ngữ của tôi thật giới hạn và nỗi lo về cái nghèo của tôi như cản bước chân tôi!!!

Vậy tôi có gì không nhỉ, tôi tự nhủ: “xem ra chúng tôi còn có nụ cười và tấm lòng” là cái giàu nhất để trao nhau cùng lời cầu chúc bình an của Thiên Chúa luôn ở với từng người.

Buổi chiều, hai chị em tôi vào làng Plei Bla, khi đến gia đình anh chị Arich chúng tôi được đón tiếp thật nồng hậu với một nồi cơm thơm nức, bên cạnh là một vài con cá khô nhỏ chiên với nồi canh bí đỏ nấu rau đắng. Bữa cơm ấy sao mà ngon đến lạ! 

Đêm hôm ấy, trong ngôi nhà xa lạ chúng tôi đã sống như những người thân giữa những người anh chị em xiết bao gần gũi và yêu mến. Ngồi nói chuyện với anh Arich về một niềm tin và một đức tin mà anh phải đổ máu, nước mắt và cả những ngày bị tù tội để bảo vệ… thế mới biết: “Để Sống niềm Tin vào Thiên Chúa thật không dễ tí nào”. Dẫu thế, tôi cũng học được một điều: chính niềm tin vào Thiên Chúa đã cho anh Arich và gia đình một giá trị để sống và tồn tại. Anh đã tìm được ý nghĩa đời mình và chính lúc đó niềm hạnh phúc của anh và gia đình đã tăng lên gấp bội khi anh nói:

 “Từ hồi mình biết Chúa mình ít uống rượu hơn, gia đình vui hơn, mình làm việc tốt hơn, bây giờ cũng còn uống rượu nhưng nó đỡ hơn rồi, mình biết đọc kinh, biết chia sẻ Lời Chúa cho bà con, trong làng ai cũng vui vì có chỗ để nói chuyện. Anh chị em mình sống tốt hơn, biết cầu nguyện và xin Chúa giúp. Mình biết Chúa thương mình, mình nghèo Chúa cũng thương, Chúa thương người nghèo lắm… nhờ biết Chúa mà bà con trong làng biết sống tốt, đùm bọc lẫn nhau… Có mấy người biểu mình bỏ Chúa đi, mình nói: ‘Làm sao mà bỏ nó được, mình tin nó ở trong lòng mình rồi, nó ở trong đầu mình rồi làm sao mà mổ nó ra rồi bỏ nó đi được, không bỏ nó được đâu…”.

Tối hôm ấy, anh em cứ ngồi rỉ rả với nhau, chúng tôi nghe được nhiều câu chuyện và có được những bài học của niềm tin, tôi bắt đầu học biết hạnh phúc khi được là người nghèo của Thiên Chúa.

NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO: GIALAI

(3)

Làng Plei Bla, ngày …tháng…năm…

Buổi sáng, gà gáy cùng với tiếng mưa rả rích gọi chúng tôi thức giấc. Sau kinh sáng và thinh lặng cầu nguyện chị Arich đưa chúng tôi đến “giọt nước”. Đường đi đến “giọt nước” không xa lắm nhưng vì lời chào hỏi những người cùng đi đường nên thời gian đến “giọt nước” kéo ra khá dài. Khi đến “giọt nước” thì đã có nhiều người đang hứng nước và vài người đang tắm giặt. Họ hứng nước từ những cái vòi được gắn vào một bức tường ngăn dòng suối từ trên núi chảy về. Trước khi hứng nước vào bầu họ luôn rửa sạch bầu bằng một loại lá gì đó tôi không biết tên, họ chà thật mạnh, rửa thật kỹ những cái bầu nước làm nó sáng bóng và đen lay láy. Tôi xin họ một ít lá, cầm nắm lá chúng tôi cũng học để rửa những cái bầu nước nhưng thật không dễ tí nào. Vừa chà rửa chúng tôi vừa được nghe các chị giải thích: nếu gia đình nào có nhiều bầu nước và những chiếc bầu ấy sáng bóng, đen láy và thật đẹp đó là dấu chỉ những gia đình khá giả, thêm vào đó, họ là một gia đình có những cô gái hoặc người phụ nữ chăm chỉ.

Cũng sáng hôm ấy chúng tôi đi làm rẫy với gia đình anh chị Arich, phải mất hai tiếng đồng hồ đi bộ lên rẫy, lần đầu tiên, hai chị em làm cỏ lúa, nhiều bỡ ngỡ, lạ lẫm, chẳng biết bước xuống ruộng như thế nào. Chúng tôi như người say rượu ngả nghiêng trên ruộng, chẳng phân biệt được cây nào là lúa cây nào là cỏ, thế là lúa bị nhổ còn cỏ được để lại.

              Sau một buổi sáng mệt nhọc thì bữa cơm trưa được bày ra ngay trên ruộng, nắm cơm gói trong lá chuối, một ít lá mì giã nát nấu với cua đã thành mắm. Tất cả được mở ra và bày ngay trên nền đất, cả nhà ngồi xúm xít bên nhau, ai nấy đều dùng bộ đũa “năm ngón”… Thế mà cơm canh vẫn ngon lành. Sau bữa cơm trưa no nê, hai chị em nằm nghỉ trưa trong vườn cà phê, giữa đất, giữa trời, ngắm mình, ngắm người mới thấy hạnh phúc thật giản đơn.

              Sau giờ nghỉ trưa mọi người lại tiếp tục xuống ruộng, chiều đến lại lội bộ về nhà, ăn cơm, đọc kinh chung với gia đình, rồi đi ngủ. Ngày hôm ấy, thật tròn đầy vì vui và khỏe, đêm ấy tôi lên giường với niềm vui của sự thành công sau một ngày làm việc.

     Sau một ngày vất vả dưới ruộng, cứ nghĩ ngày mai ta sẽ dậy sớm đọc kinh cầu nguyện rồi mới đi làm. Vậy mà… không thể tưởng tượng nổi, hai chị em chúng tôi thức dậy thì đã hơn 7 giờ sáng. Chân tay tôi rã rời, lưng đau đến độ không thể nhúc nhích được. Hai chị em ráng ngồi dậy và xuống nhà bếp. Anh chị Arich và gia đình đã ngồi chờ chúng tôi dậy ăn cơm sáng. Thế mới biết cái nghèo của thân xác và tâm hồn tôi. Tôi cứ nghĩ mình mạnh mẽ và giỏi giang, giờ đây mới hiểu mình thật nhỏ bé và yếu đuối từ thể xác cho đến tinh thần. Tôi thầm tạ ơn Chúa đã từng bước phá vỡ sự kiêu ngạo, những ảo tưởng của tôi về chính mình và những kế hoạch mà tôi lập ra.
          Sau cơm sáng, hai chị em lại xách rựa đi làm cỏ nhưng cỏ thì không phát chỉ đi phát vào chân nhau. Đến trưa, thì cả hai đều rã rời…lại một lần nữa chúng tôi học bài học về cái nghèo của chính mình. Thế mới biết, để sống và làm người giữa con người chẳng phải là dễ.

Những ngày đi kiếm rau rừng, măng tre, con chuột, con cóc…làm thức ăn, tôi mới hiểu hết câu ca dao tục ngữ: “Trời sinh voi trời sinh cỏ.” Dân làng sống rất gần gũi với thiên nhiên, môi trường tự nhiên cây cối, sông suối, núi đồi… mọi vật, mọi loài đã là bạn tri âm tri kỷ của họ. Từng ngày sống giúp tôi cảm nghiệm sâu hơn câu Kinh Thánh: “đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn. Dầu không có tiền cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào” (Is 51, 1). Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ một cuộc sống với nắng mưa, sương gió… làm bạn. Khi đi dưới mưa họ tận hưởng sức sống của nước, đứng trong nắng họ cảm nhận như cánh tay âu yếm của trời đất sưởi ấm vuốt ve. Một cuộc sống an bình, không tranh giành với trời hay với đất, chẳng tìm của cải hay vật chất nào là của mình hay của người. Trời đất, rừng núi, nương rẫy, suối nước … mọi sự là của chung, ai cần thì cứ đến mà lấy. Xem ra, cuộc sống từ thiên nhiên đã làm cho con người ở đây có một tấm lòng rất giàu có. Họ luôn cảm thấy có một cái gì đó để cho và để làm cho người khác vui hơn.

              Thời gian sống với dân làng Plei Bla, tôi nhận biết hạnh phúc thật của mình là ở đâu. Tôi bắt đầu ý thức hơn việc tôi tìm kiếm Thiên Chúa cần đơn sơ và chân thành hơn. Mỗi ngày tôi lại thấy Chúa gần tôi và tôi gần Người hơn. Tôi cảm thấy Chúa kêu mời tôi hãy làm rỗng chính mình, trở nên nghèo nàn trong mọi suy tưởng và cảm nghĩ, tôi đừng giành lấy những gì là của Chúa những hãy biết mở lòng, mở tay, mở mắt để đón nhận tình yêu Chúa trao ban.

Tôi ao ước được thêm lần nữa đụng chạm đến Chúa qua những anh chị em của tôi…phải chăng tôi có thể gọi họ là tình yêu của tôi hay sẽ gọi họ là cuộc sống của tôi. Tôi biết mình đã yêu họ và họ đã yêu mình…như Chúa đã yêu tôi.

Sr. Madalena Hiếu Thảo-Rndm

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét