Nhân dịp lễ giỗ 30 năm Đức cha cố Phêrô Nguyễn Huy Mai - giám mục tiên khởi của tân giáo phận Ban Mê Thuột. Xin ôn lại tiểu sử của ngài và hiệp thông cầu nguyện cho linh hồn ngài sớm hưởng nhan thánh Chúa. Và xin xem bài chia sẻ của tác giả G.B Nguyễn Thái Hùng bên dưới.
Đức giám mục : Phêrô Nguyễn
Huy Mai – giám mục tiên khởi G.p BMT
Sinh ngày 3 tháng 7 năm 1913
tại Hà Nội
Năm 1929, ngài vào Tiểu chủng
viện Hoàng Nguyên.
Năm 1930, Giám mục Pierre
Gendreau (Đông, 1892 – 1935), Giám mục Hà Nội gửi ngài qua Pháp du học, cụ thể vào
chủng viện Saint Sulpice Paris.
Chịu chức phó tế ngày 21
tháng 12 năm 1940 tại Nhà thờ
Saint-Sulpice, Paris, thuộc Tổng giáo phận Paris.
Thụ phong linh mục ngày 29 tháng 6 năm 1941 tại Thánh đường Notre-Dame
de Paris, Tổng giáo phận Paris do ĐHY Emmanuel Suhard.
Năm 1947 ngài về nước và được
bổ nhiệm làm cha phó giáo xứ chính tòa Hà Nội.
Năm 1952 ngài làm chính xứ
chính tòa Hà Nội kiêm giám đốc Tiểu chủng viện Piô XII của Giáo phận Hà Nội, đồng
thời kiêm chức Tổng Đại diện giáo phận.
Năm 1954 ngài di cư vào nam
và gia nhập Giáo phận Kontum dưới thời Đức cha Paul Seitz Kim.
Ngày 22 tháng 6 năm 1967,
Giáo hoàng Phaolô VI ban sắc lệnh thiết lập giáo phận Buôn Mê Thuột và bổ nhiệm
linh mục Nguyễn Huy Mai làm Giám mục chính tòa tiên khởi cho tân Giáo phận Buôn
Mê Thuột.
Khẩu hiệu giám mục của ngài
: "Ngài cần phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại”.
Lễ tấn phong cử hành tại Sài
Gòn ngày 15 tháng 8 năm 1967 do Khâm sứ Tòa Thánh Angelo Palmas chủ phong và
hai vị Giám mục phụ phong: Paul Seitz Kim, Giám mục chính tòa Giáo phận Kon Tum
và Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng.
Ngày 22 tháng 8 năm 1967,
tân Giám mục Nguyễn Huy Mai chính thức nhận Giáo phận Buôn Mê Thuột.
Ngày 25 tháng 3 năm 1968,
Giám mục Nguyễn Huy Mai ấn ký Văn thư C. 200/68, quyết định thành lập Chủng viện
Lê Bảo Tịnh, bổ nhiệm linh mục Giám đốc Tiên khởi là Augustinô Nguyễn Văn Tra.
Ngày 15.08.1981 ngài tấn
phong giám mục phó là Đức cha Giuse Trịnh Chính Trực.
Ngày 23 tháng 7 năm 1990, ngài
chủ tế thánh lễ tại Hội dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình. Trong buổi lễ này, sức
khỏe của ngài diễn biến xấu: ngài vịn ghế tiến lên bàn thờ, ngồi cho rước lễ.
Nhận thấy điều này, các nữ tu đề nghị đưa ngài đi viện nhưng không đồng ý. Các
nữ tu quyết định lấy máu của ngài đưa đi xét nghiệm. Kết quả trả về xác định ngài
bị ung thư máu giai đoạn trầm trọng.
Ngày 4 tháng 8 năm 1990, ngài
qua đời tại Tòa Giám mục Ban Mê Thuột với sự hiện diện của giám mục phó Giuse Trịnh
Chính Trực, các nữ tu Dòng Đức Maria Nữ vương Hòa Bình và thân nhân. Hưởng thọ
77 tuổi với 49 năm linh mục và 23 năm giám mục.
THƯƠNG NHỚ CHA.
Tháng Bảy trời mưa lất phất. Buồn. Nỗi buồn nhớ thương. Tháng Tám trời cũng mưa. Nỗi buồn thêm da diết. Nhớ thương Cha nằm đó. Giữa lòng Nhà Thờ. Bình dị. Cô đơn. Nhớ mùa xuân 75, khi chiến tranh đang diễn ra tại thành phố Buôn Ma Thuột, tôi cũng được đưa vào rừng cùng những người anh lớn tuổi. Sau vài ngày trong rừng, anh em được đưa lên xe Molotova, chạy suốt đêm, lên đồi xuống suối như vượt Trường Sơn. Ngày tuổi dại ấy, tôi chẳng suy nghĩ được điều gì. Tuổi thơ thật khờ khạo. Những ngày ấy vẫn lưu lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Những kỷ niệm thân thương. Suốt đêm băng rừng vượt suối. Sáng tinh mơ, mọi người được thả xuống ở vùng đất xa lạ. Hỏi ra mới biết đó là nghĩa trang Phan Bội Châu. Chủng viện thì xa. Tòa Giám Mục thì gần. Anh em dự tính về Tòa Giám Mục với vị Cha chung yêu dấu. Khi biết Ngài đang ở Dòng Nữ Vương Hòa Bình, trên một ngọn đồi, cuối đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh), anh em đến chào Ngài. Hôm sau, tôi được hân hạnh tháp tùng Cha lội bộ đi thăm Nhà thờ cha Bianchetti (nay là Nhà thờ Mẫu Tâm). Ở đó, Cha thu dọn Mình Thánh Chúa và rước về Nhà Dòng. Khi trở lại, anh em đã về chủng viện. Một mình bơ vơ giữa Dòng nữ. Chiến tranh đang diễn ra nên Cha không dám để tôi một mình trở lại chủng viện. Vài ngày sau, Cha trở về Tòa Giám Mục, tôi cũng đã theo Cha về đó. Tòa Giám Mục Ban Mê Thuột, 70 Phan Chu Trinh, cũng là hộ khẩu thường trú đầu tiên của tôi. Như một mục tử, dẫu chiến tranh đang diễn ra, Cha đi thăm các nơi, nhất là những nơi có nhà nguyện đặt Mình Thánh Chúa. Tôi còn nhớ, một lần, hai cha con lội bộ và chuyện trò rôm rả, để tránh đi cái hoang lạnh chết chóc của chiến tranh, trên đường vào Buôn Akõ Dhông (tên gọi khác là buôn Akõ Thôn, buôn Cô Thôn), đến nhà nguyện của các nữ tu dòng Biển Đức. Cha cất giữ Mình Thánh Chúa, và lặng lẽ quay về. Những bước chân trở về. Lặng lẽ. Buồn hiu hắt. Để xua tan không khí hoang vắng. Tôi gợi chuyện. Cha đáp lời bằng một cái nhìn... yêu thương. À, thì ra, Thiên Chúa hiện diện nơi đây. Chúng ta phải kính thờ. Ôi, tuổi trẻ ngây ngô và khờ khạo. Tháng Tám trời mưa. Trời mưa buồn. Nỗi buồn da diết. Nhớ lại cách đây 29 năm. Trời tháng Tám mưa buồn. Mưa da diết. Những hạt mưa như những giọt nước mắt khóc thương Cha. Ngày Cha ra đi. Trời cũng đổ mưa. Thương tiếc một vị mục tử -tử vì đạo đã lặng lẽ về với Chúa. Ngày an táng, mọi người đến với Cha, với cờ xí ngập đường. Với những vành khăn tang trắng trên đầu. Lặng lẽ, khóc thương. Trong đám tang, tôi cũng cờ xí trong tay. Đưa tiễn Cha. Đám tang như một cuộc diễn hành đức tin. Một đức tin kiên vững giữa ba đào thử thách. Một đám tang ‘hoành tráng’. Một đám tang yêu thương. Cha chọn Nhà thờ Chính Tòa làm nơi yên nghỉ. Giữa lòng Nhà Thờ. Nơi giáo dân qua lại. Cha lặng lẽ nằm đó, để mọi người bước qua. Đời người mục tử dấn thân cho đoàn chiên. Chết cho đoàn chiên. Cha nằm đó lặng lẽ. Lặng lẽ đến quạnh quẽ. Hằng tuần, thậm chí hằng ngày, tôi vào Nhà thờ dâng thánh lễ. Cầu nguyện với tất cả mọi ý nguyện mà mình nhớ. Còn Cha, nằm đó, lặng lẽ. Họa hoằn, tôi mới thấy một bó hoa đặt trên mộ hoặc có người cầu nguyện trước mộ Cha. Cha cô đơn. Cô đơn ngay trong ngôi nhà của mình. Cô đơn ngay giữa đoàn chiên bao yêu dấu! Bao ngày giỗ đến rồi đi. Ai nhớ, ai thương? Cha vẫn ở đó. Giữa đoàn chiên. Lặng lẽ. Một mình. Cô đơn. Cô đơn như thân phận của mình! Ngày mai, ngày giỗ lại đến. Mấy ai nhớ đến Cha!!!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét