
BẠN ĐƯỜNG CỦA GIÁO PHU(Yao Phu)
(Vài chia sẻ nho nhỏ với anh chị em đang cháy lửa truyền giáo)
Y. Băng
Phố
Núi, Mùa Thu 2017.
NỘI
DUNG
Nhiều
người lưỡng lự
trước
tiếng Chúa mời gọi
là
vì họ băn khoăn
không
biết sẽ phải làm gì,
nếu
trở thành môn đệ của Chúa!
Đoạn
Tin Mừng “Mt 10:1-20”
sẽ
vén màn và khai mở cho họ,
giải
toả nỗi băn khoăn của họ
và
chỉ dẫn họ
bước
vào con đường sứ vụ.
Những
chia sẻ dưới đây
dựa
vào chính Lời Chúa
để
anh chị em xác tín rằng
Lời
Chúa vẫn là kim chỉ nam tốt nhất cho người môn đệ của Chúa.
Vì
“Lời Chúa là lời sống động,
hữu
hiệu và sắc bén
hơn
cả gươm hai lưỡi:
xuyên
thấu chỗ phân cách
tâm
với linh, cốt với tủy;
lời
đó phê phán tâm tình
cũng
như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12).
1
Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần
ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
2 Sau
đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô,
rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông
Gio-an, em của ông;3 ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và
ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông
Ta-đê-ô;4 ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là
chính kẻ nộp Người. 5 Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị
rằng:
6 Tốt
hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.7 Dọc đường hãy rao
giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm
cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ.
Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.9 Đừng kiếm vàng
bạc hay tiền giắt lưng.10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo,
đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy.13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì -bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.14 Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại.15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.16 Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.
11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy.13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì -bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.14 Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại.15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.16 Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.
17 “Hãy
coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em
trong các hội đường của họ.18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa
quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.19 Khi
người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì
trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì:20 thật vậy, không
phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.
Yaophu (Giáo Phu)
là
một ơn gọi đặc biệt,
Chúa
dành cho anh chị em
người
dân tộc thiểu số.
Giữa
buôn làng, chỉ có một vài người được Chúa chọn gọi và sai đi (Cl 3:12; Ga
15:16).
Chúa
chọn, nên Chúa ban ơn,
gìn
giữ và dẫn dắt.
Chúa
đã gọi Nhóm Mười Hai,
gọi
đúng tên từng người (Mt 10:2-4)
và
ban tặng sức mạnh của Chúa,
để
các ông chiến thắng các cám dỗ
và
cộng tác với Chúa
giúp
nhiều người được chữa lành
bệnh
tật thể xác và linh hồn (Mt 10:1).
Ơn
gọi làm Yaophu
cao
cả và quý hiếm lắm!
Yaophu
đích thực càng quý hiếm hơn.
Yaophu
đích thực là người của Chúa,
làm
việc trong Chúa,
cho
Chúa, với Chúa và vì Chúa.
Yaophu
đích thực là người có đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa
qua
việc cầu nguyện
và
tham dự Thánh Lễ mỗi ngày
(nếu
có thể);
để
Chúa Thánh Thần dẫn dắt;
không
chiều theo ý riêng
nhưng luôn
tìm ý Chúa để thực thi
và
biết phân biệt ý Chúa hay ý Satan,
ý
Chúa hay ý riêng mình;
không
đặt vợ con, chồng con, tiền bạc, sức khoẻ, v.v. lên trên Chúa.
Yaophu
lên đường
nên
phải xa người thân, bạn bè.
Người
bạn đường của họ là Chúa,
là
anh chị em cùng chí hướng.
Yaophu
lên đường
nên
phải hy sinh công việc,
có
khi dùng tiền bạc của gia đình
(bán
vội càfé, củ mì…)
để
làm phương tiện đi đường
và
thăm viếng,
có
nhiều trường hợp
Yaophu
dâng tặng đất đai
nhà
cửa cho Giáo hội
để
làm nhà nguyện.
Yaophu
thường xuyên lên đường
nên
sức khoẻ cũng chịu ảnh hưởng,
có
khi làm việc đến kiệt sức,
có
khi phải lo chu toàn
việc
nhà việc nương đồng…
để
có thời giờ rảnh rang
lên
đường trong thanh thản.
Vì
hoàn cảnh xã hội,
Yaophu
còn là một con người
âm
thầm làm việc,
chấp
nhận mọi gian lao thử thách,
không
chỉ nơi cuộc sống,
mà
ngay cả tương lai cuộc đời mình,
trong
khóe nhìn con người,
họ
cũng không biết đi về đâu.
Họ
chấp nhận theo Chúa Kitô
và
muốn trở nên giống Chúa Kitô:
“Chồn
cáo có hang,
chim
trời có tổ
nhưng
con người
không
có chỗ gối đầu“ (Lc 9,58).
Họ
là những chiến sĩ thầm lặng.
Truyền
giáo là công việc thầm lặng,
không
khua chiêng đánh trống,
không
màng kết quả,
chẳng
cần nổi danh, v.v..,
vì
đó là công việc của Chúa,
như
Thánh Phaolô đã từng nói:
“Tôi
trồng, anh Apôlô tưới,
nhưng
Thiên Chúa
mới
làm cho lớn lên” (1Cr 3:6).
Bởi
thế, Yaophu không được
để
cho tâm hồn trở nên kiêu ngạo,
khoe
khoang, “sống thành tích”.
Bổn
phận của Yaophu
là
âm thầm
cộng
tác với Chúa Thánh Thần
đem
Tin Mừng đến với
những
anh chị em chưa biết Chúa.
Dù
nắng hay mưa,
dù
thuận lợi hay gặp những trắc trở,
dù
gặp thách đố hay gặt hái thành công,
Yaophu
luôn đặt mình
trong
vòng tay quan phòng
và
đầy thương xót của Chúa,
luôn
dâng hiến mình
làm
khí giới trong tay Chúa,
luôn
cùng Chúa chiến đấu đến cùng,
đi
vào mọi ngõ ngách,
gặp
gỡ mọi thành phần,
dù
khác biệt văn hoá hay ngôn ngữ,
để
giúp bà con
cảm
nhận niềm vui của Tin Mừng
mà
chính anh chị em Yaophu
đã
được Chúa ban tặng,
làm
cho hạt giống đức tin
được
nẩy mầm,
làm
cho tâm hồn
của
anh chị em đồng loại được hồi sinh
và
sống sức sống mới
của
Chúa Phục Sinh.
Khởi
đầu
đoạn
Tin Mừng “Mt 10:1-20”,
tác
giả Tin Mừng nói về “vốn liếng” Chúa trao cho các môn đệ
trước
khi lên đường (Mt 10:1),
đó
là năng quyền
của
một người truyền giáo:
mạnh
mẽ hơn các tà thần,
có
khả năng khử trừ chúng,
và
trợ giúp hoặc chữa lành bệnh nhân.
Người
truyền giáo sẽ làm được
những
điều Chúa đã từng làm,
nhưng
dưới những cách thế khác
trong
những thời đại khác mà thôi.
Yaophu
“mạnh mẽ hơn các tà thần,
có
khả năng khử trừ chúng“,
vì
họ không tự mình làm điều gì,
ngược
lại họ nhân danh Chúa
để
thực thi lệnh truyền:
“Thưa
Thầy, nghe đến Danh Thầy,
cả
ma quỷ cũng phải
khuất
phục chúng con” (Lc 10:17),
vì
tên của Yaophu đã được
ghi
trên trời (Lc 10:20),
vì
họ được Chúa ban cho quyền năng
để
đạp lên rắn rết, bò cạp
và
mọi thế lực của Kẻ Thù,
mà
chẳng có gì làm hại được họ (Lc 10:19).
Yaophu
có khả năng
“chữa
lành bệnh nhân“
không
phải vì họ là bác sĩ
hay
thầy thuốc,
nhưng
họ có con tim biết yêu thương
và
sẵn sàng cứu giúp
người
đau yếu
bằng
cách kêu gọi
sự
giúp đỡ của các vị mục tử,
các
tu sĩ nam nữ, các nhà hảo tâm.
Yaophu
sẵn sàng
giúp
người bệnh chuyển viện,
hoặc
chăm sóc người bệnh
tại
bệnh viện, tại buôn làng,
ngay
cả trên đường
họ
đang đi loan báo Tin Mừng.
Đó
là cách Yaophu
đang
“chữa lành bệnh nhân” gián tiếp
tựa
như những người
đã
khiêng những người đau bệnh
đến
với Chúa Giêsu
để
xin Người chữa lành
(Mt
9:2; Mc 2:2-5; Lc 5:17-20).
Như
thế, hành trang của Yaophu
chính
là Danh Chúa,
dựa
vào Danh Chúa
để
phục vụ Lời Chúa (Lc 10:17),
là
năng quyền được Chúa ban
cách
đặc biệt (Mt 10:1),
là
Lời Chúa
và
luôn ấp ủ Lời Chúa trong tâm trí (Lc 8:15),
là
một tâm hồn biết xót thương người (Lc 10:29-37),
là
chính Chúa Giêsu
như
Đức Mẹ Maria
đã
cưu mang Chúa Giêsu
trong
cung lòng
và
đem Chúa đến với
gia
đình bà Êlidabét vậy (Lc 1:39-45).
Yaophu
đi truyền giáo,
nên
đối tượng
cần
được nghe biết Tin Mừng
là
những người chưa biết Chúa,
những
người đã bỏ Chúa,
những
người đang lạc mất đức tin,
những
người đang bị đàn áp
và
đe dọa đức tin, v.v..
Chúa
đã từng căn dặn
các
môn đệ nên gặp ai,
đối
tượng cần được
nghe
Tin Mừng là ai.
Chúa
có kế hoạch của Chúa
và
hiểu rõ khả năng của từng môn đệ:
Chúa
dặn rằng hãy đến với
các
con chiên lạc nhà Ít-ra-en,
chứ
đừng vội đến với dân ngoại (Mt 10:5-6).
Sau
khi Chúa sống lại,
trước
khi về trời,
lúc
này các môn đệ trưởng thành hơn,
hiểu
Chúa hơn, yêu Chúa hơn,
và
sẵn sàng sống chết với Chúa,
Chúa
mới bảo họ đi xa hơn,
gặp
nhiều người hơn
–
cả dân ngoại
lẫn
các con chiên lạc nhà Ít-ra-en,
thậm
chí không trừ một thụ tạo nào (x. Mc 16:15; Mt 28-19).
Như
thế, từ thời của Chúa,
việc
“tái truyền giáo” đã có rồi:
“Hãy
đến với các con chiên lạc nhà Ítraen!“,
việc
“truyền giáo” cũng đã có
và
là lệnh truyền tối thượng:
“Anh
em hãy đi
khắp
tứ phương thiên hạ,
loan
báo Tin Mừng
cho
mọi loài thọ tạo“.
Chúa
cũng đã dùng cách thức
“Tân
Phúc-Âm-Hóa” để truyền giáo:
tiếp
cận với người Pharisêu
qua
việc đối thoại với ông Nicôđêmô (Ga 3:1-21),
ăn
uống với họ (Lc 7:36);
tiếp
cận người phụ nữ Samaria (Ga 4:5-42)
bằng
cách trò chuyện
và
thấu hiểu hoàn cảnh của chị;
tiếp
cận những người tội lỗi (Mt 9:9-13) và đau bệnh (Mc 5:25-34)
bằng
cách ăn uống và cảm thông
để
giúp họ được giải thoát
và
chữa lành.
Ngày
nay, chúng ta chỉ cần học lấy
các
cách thức tuyền giáo của Chúa
để
thực thi lệnh truyền của Người
và
thu lượm hoa trái mà thôi.
Tuy
thế, các phương thế truyền giáo của hôm nay
có
thể khác khi xưa,
“thời
theo thời”,
nhưng
dù thế nào,
việc
lên đường để tiếp cận
và
được gần gũi với dân chúng
vẫn
là điểm then chốt,
ưu
tiên và tối ưu hơn cả,
vì
chính Thầy Giêsu
đã
rong ruổi khắp nơi,
đi
vào mọi ngõ ngách,
gặp
gỡ mọi thành phần trong xã hội.
Các
môn đệ Chúa cần làm gì
khi
gặp người
chưa
nghe biết Tin Mừng?
Rất
đơn giản, đó là nói về Chúa,
về
Đấng Mê-xi-a cho họ nghe:
“Dọc
đường hãy rao giảng rằng:
Nước
Trời đã đến gần” (Mt 10:7).
Trong
Tân Ước, khi nói về Nước Trời
là
có ý nói về chính Chúa Giêsu vậy.
Chúa
Giêsu đã từng mặc khải
về
chính Người
cho
người phụ nữ Samaria
để
giúp chị đón nhận
Tin
Mừng Cứu Độ (Ga 4:5-42).
Yaophu
chúng ta hãy học
cách
truyền giáo của Chúa
qua
câu chuyện này.
Khi
gặp người phụ nữ Samaria,
Chúa
không vội vàng
nói
về Chúa cho chị ấy nghe,
mà
Chúa làm quen với chị.
Đầu
tiên,
Chúa
xin chị cho chút nước uống
để
tạo thiện cảm
và
kết bạn với chị (Ga 4:7-14),
dù
hai người khác văn hóa
(Do
Thái và Samaria).
Sau
khi có được tình bạn,
Chúa
xây dựng niềm tin,
làm
cho chị tin Chúa
là
một người chân thật và tốt bụng,
một
người bạn đích thực,
hiểu
và thông cảm
cho
hoàn cảnh sống của chị,
sẵn
sàng nâng đỡ chị,
đón
nhận con người của chị
dù
chị có một quá khứ không tốt,
dù
cuộc sống hiện tại của chị
có
nhiều rối ren (Ga 4:15-19).
Tiếp
đến,
Chúa
bắt đầu đối thoại đức tin với chị.
Hai
người chia sẻ niềm tin cho nhau.
Chúa
soi sáng cho chị thấy
đâu
là con đường dẫn chị
tới
gặp sự thật, chân lý, tự do
và
sự sống viên mãn (Ga 4:20-26).
Một
khi có một sự đối thoại tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau,
Chúa
mời chị đi kín múc
nguồn
nước hằng sống,
tôn
thờ Thiên Chúa
không
phải trên núi này núi kia,
mà
trong chính tâm hồn mình,
để
Thiên Chúa làm chủ tâm hồn
và
dưỡng nuôi linh hồn (Ga 4:27-30).
Cuối
cùng, sau khi tin Chúa,
chị
đã trở thành
môn
đệ truyền giáo của Người,
giới
thiệu Chúa cho người khác
(Ga
4:39-42).
Vâng,
sứ mạng chính của các môn đệ
là
giới thiệu Chúa cho người khác,
giúp
họ được nghe biết Tin Mừng,
chứ
không phải là cho người ta
ăn
uống, áo tiền, thuốc men…
Nếu
chúng ta để ý,
khi
thấy dân chúng đói khát,
Chúa
Giêsu đã không vội
làm
phép lạ bánh hoá nhiều,
nhưng
muốn dân ở lại với Chúa
để
nghe Lời Chúa
và
khi thấy họ đã ăn no Lời Chúa,
Người
mới làm phép lạ bánh hoá nhiều
để
nuôi thân xác dân chúng (Mt 15:32; Mc 6:34).
Thực
thế, trong những lời căn dặn
của
Chúa Giêsu,
việc
rao giảng Tin Mừng được ưu tiên,
sau
đó mới tới việc bác ái xã hội
như
chữa lành bệnh tật,
giúp
đỡ người nghèo đói (Mt 10:8).
Nói
cách khác,
việc
bác ái xã hội luôn đan xen,
hòa
quyện với việc truyền giáo.
Truyền
giáo mà không có bác ái xã hội,
nghĩa
là giúp đỡ người nghèo đói,
nâng
đỡ người túng quẫn,
bảo
vệ người cơ nhỡ,
chăm
lo cho trẻ em
được
học hành nghiêm chỉnh,
chăm
sóc bệnh nhân,
chữa
trị người đau ốm, v.v..
thì
việc truyền giáo
như
một “thùng rỗng kêu to”,
như
những lời nói sáo rỗng,
như
những việc làm vô ích.
Như
đã chia sẻ ở trên,
Yaophu
có thể
không
đủ khả năng về tiền bạc
để
giúp đỡ người nghèo đói,
trẻ
em thất học, người đau bệnh…
nhưng
có khả năng giới thiệu,
kêu
cứu và “khiêng người đau bệnh”
đến
với các cha, các thầy, các sơ
và
những người hảo tâm,
những
người có khả năng tài chính.
Đôi
khi, qua việc bác ái xã hội,
Yaophu
dễ dàng thuyết phục
người
chưa biết Chúa
hoặc
đang yếu đức tin
càng
thêm tin tưởng vào Chúa
và
gắn bó với Hội Thánh.
Đây
cũng là một cách thức truyền giáo.
Bên
cạnh đó, có một số Yaophu
biết
áp dụng truyền thông
để
truyền giáo,
như
phát sách truyện các thánh
và
Kinh-Thánh-bằng-hình cho trẻ em,
dùng
điện thoại và thẻ nhớ
sao
chép các phim Công Giáo
để
minh họa cho những lời rao giảng
và
làm cho người chưa biết Chúa
dễ
hiểu về Chúa và Lời Chúa hơn,
dùng
máy cát-sét bật các bài giảng
cho
người già và không biết chữ nghe, v.v..
Đây
là một trong những cách thức
“Tân
Phúc-Âm-Hóa” khá hiệu quả
dành
cho anh chị em trong các buôn làng.
Chúa
đã khuyên các môn đệ
hãy
sống đơn giản và tín thác vào Chúa (Mt 10:9-10),
đem
niềm vui và bình an
đến
cho dân chúng (Mt 10:11-16),
yêu
thương và tôn trọng nhau:
“khôn
ngoan đối đáp người ngoài,
gà
cũng một mẹ chớ hoài đá nhau”,
và
để Thần Khí hướng dẫn
trong
mọi cách ăn nết ở (Mt 10:17-20).
Sống
theo lời khuyên của Chúa,
Yaophu
sẽ có một thần thái
và
phong thái
của
một môn đệ đích thực của Chúa.
Một
thần thái thanh thoát nhưng nỗ lực,
một
phong thái mạnh mẽ nhưng khiêm tốn,
trưởng
thành nhưng đơn sơ,
gần
gũi nhưng nghiêm túc,
nhiệt
thành nhưng tín thác,
hòa
đồng nhưng không hòa tan…
Tóm
lại, lối sống của Yaophu
luôn
toát lên một sự khiêm nhường,
tin
tưởng, hy vọng.
Con
người của Yaophu
là
con người của Thần Khí:
“Anh
em đừng lo phải nói làm sao
hay
phải nói gì,
vì
trong giờ đó,
Thiên
Chúa sẽ cho anh em biết
phải
nói gì:
thật
vậy, không phải chính anh em nói,
mà
là Thần Khí của Cha anh em
nói
trong anh em” (Mt 10:19-20).
Trên
đường truyền giáo,
Yaophu
ít nhiều gặp các thử thách
và
đối diện với một số thách đố.
Thử
thách về sự an toàn,
về
nhu cầu tiền bạc,
về
sắc dục và hôn nhân gia đình.
Thách
đố về sức khỏe,
về
khả năng giao tiếp và tiếp cận,
về
văn hóa và phong tục,
về
chính trị
và
nhóm tôn giáo quá khích.
Yaophu
thường gặp một số trường hợp
gây
cản trở việc tiếp nhận Tin Mừng
như
chưa “bỏ mả” (“pơ thi”)
nên
chưa theo Chúa được,
đang
làm “phù thủy” (Pơ Jâu),
ông
bà chưa theo Chúa
nên
con cháu cũng không theo,
chịu
ảnh hưởng của tư tưởng
anh
chị em Tin Lành,
bị
hiểu lầm và chống đối bằng hành động và đe dọa, v.v.
Yaophu
dễ bị ngăn cản,
bắt
bớ, đánh đập…
nên
e ngại lên đường,
để
tìm kiếm sự an toàn
cho
bản thân và gia đình.
Yaophu
thường có gia cảnh nghèo,
nên
lo lắng tiền đi đường
và
nồi cơm của gia đình.
Yaophu
đi với bạn đường,
có
khi là bạn đường khác giới,
nên
dễ bị cám dỗ về tình cảm
và
hiểu lầm về tình cảm.
Yaophu
đi gặp gỡ nhiều người,
trong
đó có người khác phái
và
gặp hoàn cảnh bi thương,
nên
dễ bị chuyển dịch tình cảm,
sa
ngã trước cám dỗ của sắc dục.
Yaophu
phải đi nhiều nơi,
nên
cần có sức khỏe tốt.
Yaophu
phải lang thang sớm chiều, mưa nắng, nóng lạnh,
nên
dễ bị cảm sốt, yếu đau.
Yaophu
có khi ít chữ
và
chưa hiểu biết về kỹ năng giao tiếp,
nên
không biết nói năng
và
giải thích rõ ràng về Đạo Chúa.
Yaophu
cũng đối diện với
các
văn hóa bản làng dị biệt
và
phong tục khác thường,
nên
cần thời gian tìm hiểu
và
đi vào văn hóa mới,
để
giới thiệu Chúa.
Yaophu
cũng bị rơi vào
những
tình huống chính trị
như
bị ghép tội là người tuyên truyền văn hóa sai lạc và tà đạo,
nên
bị bắt bớ và ngăn cấm vào làng.
Yaophu
cũng gặp những tôn giáo bạn
và
người quá khích chống đối,
lôi
kéo người khác xa lánh
và
tuyên truyền sai lạc về Đạo Chúa
để
tạo sự thù ghét, khích bác, hồ nghi…
Người
chưa muốn theo Đạo
vì
chưa làm “pơ thi” (bỏ mả),
là
do họ nghe những lời đồn thổi
rằng
mồ mả là nơi ở của tà thần
(yang
sat, xamăt),
cho
nên không được đi đến viếng mồ mả.
Yaophu
gặp trường hợp này
thì
nên giải thích
rằng
nghĩa trang nơi chôn cất thi hài người chết
cũng
là nơi linh thiêng và kết nối
giữa
người sống và người chết,
là
nơi của sự gặp gỡ
khi
cầu nguyện cho người đã chết,
là
dấu chỉ của sự chờ đợi
“xác
người sẽ sống lại
trong
ngày tận thế
để
hòa nhập với linh hồn,
đi
vào sự sống vĩnh cửu“,
và
Giáo hội Công giáo tôn trọng
vong
linh của người đã chết,
không
ngừng cầu nguyện cho họ.
Đi
thăm viếng người chết tại nghĩa trang là nghĩa cử đẹp,
là
đạo hiếu cao cả và tốt lành,
là
thể hiện niềm tin vào sự phục sinh,
là
nét văn hóa đặc thù của dân tộc Việt Nam.
Đạo
Công Giáo khuyến khích
người
Công giáo sống đạo hiếu,
giữ
gìn và thăng hoa
truyền
thống văn hóa,
và
trung thành cầu nguyện
cho
tổ tiên ông bà, cha mẹ
và
người thân đã qua đời
ngay
cả đang còn sống,
cũng
như bảo vệ và phát triển văn hóa của dân tộc.
Vì
thế, đã bỏ mả hay chưa bỏ mả
đều
không quan trọng,
miễn
là chúng ta tin Chúa,
tin
vào sự sống lại và sự sống đời sau.
Yaophu
gặp các phù thủy (Pơ Jâu)
cần
kiên nhẫn chờ đợi
sự
trưởng thành đức tin
nơi
các phù thủy.
Một
khi phù thủy tin Chúa,
có
đức tin đủ mạnh,
thì
họ không còn ngã vật ra
khi
ăn thịt và khi cầu nguyện.
Cả
cộng đoàn cần thêm lời cầu nguyện cho họ.
Hãy
xin các cha đặt tay chúc lành
và
cầu nguyện cho họ.
Khi
nghe các tuyên truyền sai lạc
về
Đạo Công Giáo,
anh
chị em Yaophu đừng vội
thanh
minh, tranh luận…
Hãy
nhẫn nhục, vui vẻ,
và
sống sao cho họ nhận thấy
chúng
ta yêu họ, tôn trọng họ.
Ví
dụ như:
Đạo
nào cũng dạy “ăn ngay ở lành”;
Đạo
chúng tôi có trước Đạo Công Giáo;
Theo
Đạo, phải bỏ ông bà cha mẹ, không được thờ cúng tổ tiên;
Đạo
Công Giáo sống đạo không tốt
(ăn
nhậu say sưa, ngoại tình, gian lận…);
Tại
sao phải gọi các Linh mục là Cha,
trong
khi Chúa Giêsu nói:
“anh
em chỉ có một Cha trên trời là Cha của anh em” (Mt 23:9)?
Đạo
nào cũng dạy “ăn ngay ở lành”,
nhưng
Đạo Công Giáo
dẫn
đưa con người
vào
trong mối tương quan thân mật
với
Thiên Chúa;
và
qua Đức Kitô,
được
gọi Thiên Chúa là Cha (Abba),
gọi
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ;
qua
sự nhập thế, sự chết
và
sự phục sinh của Chúa Kitô
con
người được cứu chuộc
và
giải thoát khỏi tội lỗi
để
hưởng sự sống đời đời;
qua
Lời Chúa,
người
tín hữu sống tốt hơn,
“ăn
ngay ở lành” hơn nữa.
Không
có Đạo nào có trước Đạo Công Giáo,
bởi
vì Đạo Công Giáo đã có từ ngàn xưa,
từ
thuở “tạo thiên lập địa”;
bởi
vì Đạo Công Giáo tin vào Thiên Chúa,
mà
Thiên Chúa thì có từ khi chưa có đất trời và vạn vật;
từ
khi Chúa Giêsu Kitô nhập thể,
xuống
thế gian làm người
và
cứu chuộc tội lỗi cho con người,
lúc
đó, Đạo Công Giáo
là
từ ngữ được dùng
để
phân biệt với Đạo Do Thái
vì
nhiều người Do Thái không tin
Chúa
Giêsu là Đấng cứu độ trần gian.
Đạo
Công Giáo cũng được dùng
để
phân biệt với
Đạo
Chính Thống Giáo,
Tin
Lành và Anh Giáo.
Từ
đầu, Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh,
được
thế giới gọi là Kitô Giáo.
Sau
đó, Hội Thánh bị chia rẽ,
mới
có Đạo Chính Thống Giáo (năm 1054),
Tin
Lành (năm 1517)
và
Anh Giáo (năm 1534).
Như
thế, Đạo nào có trước tiên?
Đạo
Công Giáo tôn trọng sự hiếu thảo
và
dạy tín hữu sống hiếu thảo.
Điều
răn thứ tư trong Mười Điều Răn
là
“Thảo kính cha mẹ”.
Trong
các Thánh Lễ,
luôn
có phần cầu nguyện
cho
tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Như
thế, Đạo Công Giáo
đâu
có ép buộc người tín hữu
phải
bỏ việc thờ cúng ông bà, cha mẹ!
Hơn
thế nữa,
Đạo
Công Giáo sống đạo hiếu
trong
tinh thần cầu nguyện,
cầu
nguyện cho tổ tiên
và
các bậc cha mẹ,
giúp
người tín hữu sống chiều sâu
của
sự hiếu thảo
bằng
cả hành động
lẫn
sự âm thầm cầu nguyện.
Giáo
hội Công Giáo tự bản chất
là
Giáo hội thánh thiện,
công
giáo và truyền thống;
nhưng
có một số phần tử trong Giáo hội
sống
chưa tốt, làm gương xấu.
Chỉ
có một số người,
chứ
không phải tất cả người Công Giáo sống không tốt.
Đạo
nào cũng có người tốt, kẻ xấu.
Đạo
Công Giáo
luôn
đón nhận người không tốt,
tìm
cách giáo dục họ
và
giúp họ sống tốt.
Vì
thế, Đạo Công Giáo
luôn
dạy người tín hữu
sống
tốt và cố gắng sống tốt hơn.
Đạo
Công Giáo gọi các Linh mục là “Cha”,
không
phải như là “Cha trên trời” (Chúa Cha),
nhưng
là Cha thiêng liêng –
người
cha đã sinh ra người tín hữu trong Phép Thánh Tẩy;
bởi
vì thánh Phaolô nói:
“cho
dầu anh em có ngàn vạn giám thị trong Đức Ki-tô,
anh
em cũng không có nhiều cha đâu,
bởi
vì trong Đức Ki-tô Giê-su,
nhờ
Tin Mừng,
chính
tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4:15)
Tại
sao chúng ta gọi
người
sinh ra mình, người đỡ đầu mình
là
Cha là Mẹ?
Nếu
“không gọi ai dưới đất này là Cha”
thì
tại sao chúng ta gọi
người
sinh ra mình là Cha (Mẹ), hoặc
người
đỡ đầu cho mình là Cha (Mẹ).
Họ
là cha mẹ chúng ta
là
vì họ đã và đang
cộng
tác với Thiên Chúa Cha
sinh
thành nên chúng ta,
giúp
chúng ta chào đời,
dưỡng
dục chúng ta nên người.
Vì
thế, gọi các Linh mục là “Cha”,
vì
họ đã cộng tác với Thiên Chúa
tái
sinh chúng ta trong Phép Rửa Tội,
giúp
chúng ta thuộc về Chúa
và
Hội Thánh của Người.
Đoạn
Tin Mừng “Mt 10:1-20”
tuy
ngắn ngủi nhưng lại chất chứa
nhiều
thông điệp, nhiều bài học,
và
như một lời mời gọi
tất
cả những ai tin vào Chúa,
đặc
biệt các Yaophu,
hãy
mạnh dạn lên đường
loan
báo Tin Mừng:
“Như
Chúa Cha đã sai Thầy,
thì
Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21)
Chúa
đã rong ruổi,
lang
thang nhiều làng,
nhiều
vùng, nhiều miền…
để
loan báo Tin Mừng Cứu Độ.
Chúa
đã kinh nghiệm
tất
cả những thách đố,
vượt
qua mọi thử thách.
Chúa
đi bước trước,
mở
đường cho chúng ta.
Nhiều
môn đệ của Chúa
cũng
đã đi trên con đường của Chúa,
làm
những công việc như Chúa.
Họ
đã gieo, đã tưới;
Thiên
Chúa làm cho lớn lên;
còn
chúng ta chỉ việc đi gặt lúa
đem
vào kho lẫm của Người mà thôi.
Vì
thế, bản chất của Giáo Hội
là
truyền giáo (Ad Gentes, số 4, 16).
Ngày
nào Giáo Hội
không
biết truyền giáo
thì
Giáo Hội
sẽ
không còn là Giáo Hội nữa,
nghĩa
là bị lãng quên,
là
đi vào cõi chết (Ad Gentes, số 2).
Nếu
các buôn làng không nhiệt thành lên đường truyền giáo,
thì
các buôn làng đó sẽ thiếu sức sống,
khó
phát triển và lan rộng,
khó
duy trì đời sống đức tin bền vững cho con cháu:
“Ta
biết các việc ngươi làm:
ngươi
chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng.
Phải
chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!
Nhưng
vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh,
nên
Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.”
(Kh 3:15-16)
Nhiều
người trong làng
biết
lên đường loan báo Tin Mừng
thì
làng đó
sẽ
là một làng của cầu nguyện,
của
Thần Khí,
của
sự đoàn kết và yêu thương;
bởi
vì người lên đường truyền giáo
là
người biết cầu nguyện
và
siêng năng cầu nguyện,
luôn
sống trong Thần Khí,
để
Chúa Thánh Thần dẫn dắt họ.
Sau
cùng, người viết xin mượn
vài
lời của Chúa Giêsu,
các
thánh và Đức Thánh Cha
để
tạm kết những chia sẻ này.
Chúa
Giêsu nói:
“Anh
em hãy đi
khắp
tứ phương thiên hạ,
loan
báo Tin Mừng
cho
mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).
“Không
phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả
những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.”
(Ga 15:16)
Thánh
Phaolô nói:
“Làm
sao họ kêu cầu
Đấng
họ không tin?
Làm
sao họ tin
Đấng
họ không được nghe?
Làm
sao mà nghe,
nếu
không có ai rao giảng?
Làm
sao mà rao giảng,
nếu
không được sai đi?
Như
có lời chép:
Đẹp
thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10:14-15),
“Khốn
thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9:16),
và
“Thiên
Chúa muốn cho mọi người
được
cứu độ
và
nhận biết chân lý” (1Tm 2:4).
Đức
Thánh Cha Phanxicô nói:
“Hội
Thánh “đi ra” là một cộng đoàn các môn đệ truyền giáo
đi
bước trước, dấn thân và nâng đỡ,
sinh
hoa trái và vui mừng.
Một
cộng đoàn loan báo Tin Mừng
biết
rằng Chúa đã có sáng kiến,
Ngài
đã yêu chúng ta trước (x. 1Ga 4:19),
và
vì thế chúng ta có thể dấn bước,
mạnh
dạn có sáng kiến,
đến
với người khác,
tìm
kiếm những người sa ngã,
đứng
ở các ngả đường
để
đón mời những người
bị
gạt ra bên lề“
(“Niềm
Vui Tin Mừng”, số 24),
và
“Tôi
muốn có một Hội Thánh
bị
bầm dập,
bị
tổn thương
và
lấm lem vì đã ở ngoài đường,
còn
hơn một Hội Thánh bệnh hoạn
vì
đóng cửa và nhàn rỗi
bám
víu vào sự an toàn
của
riêng mình.“
(“Niềm
Vui Tin Mừng”, số 49)
Thánh
Phêrô nói:
“Anh
em hãy biết rằng
Chúa
chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn
chính
là để anh em được cứu độ,
như
ông Phao-lô,
người
anh em thân mến của chúng ta,
đã
viết cho anh em,
theo
ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông”
(2Pr 3:15),
“Ai
làm hại được anh em,
nếu
anh em nhiệt thành làm điều thiện?
Mà
nếu anh em chịu khổ
vì
sống công chính,
thì
anh em thật có phúc!
Đừng
sợ những kẻ làm hại anh em
và
đừng xao xuyến.
Đức
Ki-tô là Đấng Thánh,
hãy
tôn Người làm Chúa
ngự
trị trong lòng anh em.
Hãy
luôn luôn sẵn sàng trả lời
cho
bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.
Nhưng
phải trả lời cách hiền hoà
và
với sự kính trọng.
Hãy
giữ lương tâm ngay thẳng,
khiến
những kẻ phỉ báng anh em
vì
anh em ăn ở ngay thẳng
trong
Đức Ki-tô,
thì
chính họ phải xấu hổ
vì
những điều họ vu khống,
bởi
lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành,
nếu
đó là ý của Thiên Chúa,
còn
hơn là vì làm điều ác” (1Pr 3:13-17),
“Được
chia sẻ những đau khổ
của
Đức Ki-tô bao nhiêu,
anh
em hãy vui mừng bấy nhiêu,
để
khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh
em cùng được vui mừng hoan hỷ”
(1Pr 4:13),
và
“Anh
em sẽ được hân hoan vui mừng,
mặc
dầu còn phải ưu phiền ít lâu
giữa
trăm chiều thử thách.
Những
thử thách đó
nhằm
tinh luyện đức tin của anh em
là
thứ quý hơn vàng gấp bội,
–
vàng là của phù vân,
mà
còn phải chịu thử lửa.
Nhờ
thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện,
đức
tin đã được tinh luyện đó
sẽ
trở thành lời khen ngợi,
và
đem lại vinh quang, danh dự” (1Pr 1:6-7).
“Anh chị
em thân mến, anh chị em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực
tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh chị
em sẽ không trở nên vô ích.“
(1Cr
15:58)
Đất
Đỏ Bazan, 18/09/2017
Y.Băng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét