“Thiên Chúa đã ban cho tôi một người mẹ và một người cha,
xứng đáng sống ở trên trời hơn là ở dưới đất”. Đó là lời thánh Têrêsa ca tụng
cha mẹ ngài. Cha ngài là Luy Matinô, sinh năm 1823 và mẹ ngài là Maria Guérin
sinh năm 1831. Cả hai trai tài gái sắc này, đã đến gõ cửa tu viện xin dâng
mình phụng thờ Chúa. Nhưng ý Chúa Quan phòng đã muốn cho đôi bên sống đời đôi
bạn, làm vinh danh Chúa ở giữa trần gian.
Năm 1858, Thiên Chúa đã se định cho Luy Matinô kết duyên
với Maria Guérin, cả hai cùng rất đạo đức. Tại Alencon, đôi vợ chồng trẻ đã
sống những ngày kinh nguyện sốt sắng, tha thiết xin Chúa chúc lành và nếu
Chúa muốn, Chúa ban cho gia đình đông con để thờ phượng Chúa. Được Chúa nhận
lời, hai ông bà đã lần lượt sinh hạ chín người con, hai trai và bảy gái. Hai
cậu con trai đã theo chân hai chị về trời lúc còn non yếu. Còn lại năm chị em
gái tất cả đều hưởng thụ nhân đức của cha mẹ và lần lượt dâng mình cho Chúa
trong dòng kín.
Têrêsa là con út sinh ngày
02.01.1873, tại Alencon. Chào đời chưa được bốn năm, Têrêsa đã phải vấn mầu
khăn tang. Năm 1877, Chúa đã cất mẹ ngài về sau những ngày tận tụy mến Chúa
và giáo dục con cái. Sau đó, gia đình ông Luy Matinô dọn về trại Buissonê tọa
lạc gần tỉnh Lisieux. Chính nơi đây Têrêsa được hưởng nền giáo dục đầy đủ về
cả trí lẫn đức nhờ sự săn sóc cưng chiều của người cha và các chị, bù lại
tình thương của người mẹ Chúa đã cất về. Ngay từ lúc ba tuổi Têrêsa đã hứa
với Chúa quyết không từ chối với Chúa một điều gì. Lòng mến của ngài đối với
Chúa Giêsu quả thực nồng thắm và keo sơn gắn bó. Bao nhiêu đồ chơi nho nhỏ và
quý báu cũng như những tâm tư thầm kín trong lòng, Têrêsa đều dâng cho Chúa
Giêsu hết. Năm 1881, Têrêsa được gửi học tại trường các chị dòng Bênêđictin ở
Lisieux. Trong thời gian sống tại đây, Têrêsa rất xuất sắc về học hành cũng
như về đạo đức. Năm 1883, thánh nữ lâm bệnh nặng khiến mọi người trong gia
đình lo âu. Song song với những công việc chạy thầy chạy thuốc, cả gia đình
hiệp ý sốt sắng làm tuần cửu nhật dâng kính Đức Mẹ Thắng Trận, cầu xin cho
Têrêsa được khỏi bệnh. Ngày chủ nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, đang lúc
người ta làm việc khấn Đức Mẹ cầu cho Têrêsa, thì thánh nữ đã nhìn thấy tượng
Đức Mẹ đặt trong phòng mỉm cười với thánh nữ. Đồng thời cơn bệnh biến đi một
cách mau lẹ và Têrêsa cảm thấy trong người khoan khoái dễ chịu. Năm 1884,
Têrêsa được rước lễ vỡ lòng và chịu phép thêm sức.
Ngày lễ Giáng sinh năm 1887, Têrêsa như được ơn Chúa gọi
đặc biệt. Cô muốn bắt chước hai chị đi tu dòng. Sau bao ngày suy nghĩ và cầu
nguyện, Têrêsa đã chọn ngày lễ Hiện Xuống để tỏ ý muốn đó với ông thân sinh. Thế
rồi ngày 31-10, hai cha con lên yết kiến Đức Giám mục Bayơ xin ngài cho
Têrêsa được vào dòng kín lúc 15 tuổi. Nhưng Đức Giám mục và bề trên dòng kín
đều từ chối. Không thối chí, hai cha con lại sang tận Rôma tâu xin Đức Giáo
Hoàng. Trong một lá thư gửi chị Pauline, Têrêsa đã thuật lại cuộc triều yết
đó như sau: “Chị nghĩ xem, tâm hồn em phải rung động biết bao khi đến lượt em
lên hôn chân Đức Thánh Cha. Em đã quyết định tỏ niềm tâm sự của em với ngài,
chứ không chịu về không. Em đã mạnh dạn đạo đạt ý nguyện của em, nhưng em
không nói hết được, vì cha chính Rêvêrôni không cho em giờ để tâu xin. Dầu
vậy, ngay khi đến chân Đức Thánh Cha, em đã tâu: Tâu lạy Đức Thánh Cha, con
muốn xin vào dòng kín năm 15 tuổi. Đức Thánh Cha bảo em: “Được, nếu Chúa
muốn, con sẽ vào dòng kín”… Thưa chị, lần này em cũng khóc không kém gì lần
đến hầu Đức Cha Bayơ. Nhưng rồi em lại trấn tĩnh được ngay với ý tưởng: em là
quả bóng chơi của Chúa Giêsu Hài Đồng, hoàn toàn tùy thuộc quyền sử dụng của
Người. Phần em, em luôn theo ý Người”.
Chính tư tưởng tốt đẹp và đầy phó thác đó đã nuôi dưỡng ý
chí của Têrêsa, và tinh thần phó thác trọn hảo, Têrêsa đã được Chúa ban cho
như sở nguyện: Ngày 09.4.1888, Đức Giám mục cho Têrêsa được miễn tuổi và vào
dòng kín. Ít lâu sau, Têrêsa lại được mặc áo dòng và chính thức nhận tên
“Têrêsa Hài Đồng Giêsu”.
Luôn luôn với một tinh thần hy sinh và chịu đựng, thánh nữ
chu toàn tất cả các việc bổn phận. Trong một lá thư gửi cho chị Celine, thánh
nữ viết: “Từ tháng bảy năm ấy, em giặt quần áo cho các chị em dòng. Ngoài ra,
em còn phải quét cầu thang, phòng ngủ, và lúc 4 giờ chiều em phải làm cỏ. Sau
ngày mặc áo dòng, em giữ nhiệm vụ dọn bàn ăn, quét nhà, kín nước, và dọn
phòng thánh. Từ ngày 03-4-1896, vì mắc bệnh đau phổi, nên mẹ bề trên để em
phụ tá nhà may với một chị khác”. Với lòng bác ái, chị thánh thường tự động
đến giặt giúp các chị em, nhất là chị em nào khó tính, như để có dịp phát
triển đức chịu đựng và niềm nở vui tươi.
Tháng 10-1891, sau tuần phòng do cha Alexis Prou giảng,
thánh nữ được ơn mặc khải và hoàn toàn tin tưởng, phó thác vào tình yêu Chúa.
Chị thánh sống cuộc đời âm thầm, bình dị trong tinh thần tận hiến. Chính vì
thế, trong dòng không ai để ý đến cách sống của thánh nữ, ngoại trừ mẹ bề
trên Maria Agnès Giêsu, tức bà Pauline, chị ruột của thánh nữ. Vì hiểu tâm
hồn và đời sống thánh thiện của Têrêsa, mẹ đã truyền cho chị viết lại chính
đời sống của chị, ta quen gọi là: “Truyện một tâm hồn”.
Dường như Chúa càng yêu ai thì càng ban cho người đó nhiều
gánh nặng, nhiều đau thương. Thánh nữ Têrêsa không tránh khỏi thông lệ đó.
Ngày 11-6-1895, trong khi bắt đầu ngắm đàng thánh giá, thánh nữ đột nhiên cảm
thấy vết thương tình yêu đau nhói bên cạnh sườn. Lễ Phục sinh năm sau, thánh
nữ lại phải chịu những thử thách nặng nề về đức tin, trong khi thể xác bị hao
mòn vì cơn bệnh ho lao hành hạ. Dẫu vậy, thánh Têrêsa luôn tuyệt đối tin
tưởng vào Chúa. Ngài viết: “Chúa sẽ mệt mỏi, sẽ chán thử thách tôi, chứ không
bao giờ tôi hoài nghi Chúa… Không phải vì tôi được giữ linh hồn sạch tội
trọng là tôi trông cậy vào Chúa đâu, cả khi tôi cảm thấy tất cả tội lỗi của
người ta đè nặng trên lương tâm, tôi cũng không mất lòng tin tưởng vào Chúa. Lúc
đó với lòng ăn năn thống hối, tôi giấn toàn thân vào cánh tay Chúa Cứu Chuộc
tôi. Tất cả các tội đó sẽ tan đi như giọt nước nhỏ tan biến trong ngọn lửa
đang bùng cháy”.
Càng về cuối đời, Têrêsa càng chịu nhiều thử thách về cả
tâm hồn và thể xác. Tuy nhiên, thánh nữ cũng chiếu sáng một đức phó thác
tuyệt đối. Ngày 08-7-1897, thánh nữ lâm bệnh nặng và lúc 19 giờ ngày 30-9,
sau khi chịu các phép bí tích, ngài đã trút linh hồn cách êm ái, khi miệng
còn kêu: “Ôi lạy Chúa, con yêu mến Chúa”.
Đã khuất bóng, nhưng thánh Têrêsa còn để lại cho mọi người
một bức gương sáng ngời về đức phó thác và, một đường lối nên thánh đơn sơ
quen gọi là đường “thơ ấu thiêng liêng”. Như trẻ con nhỏ, thánh nữ chỉ cố
gắng vâng lời và chu toàn nhiệm vụ thường nhật. Chính ngài đã viết: “Con
đường thơ ấu thiêng liêng là con đường tin tưởng và phó thác. Tôi chỉ muốn
theo những phương pháp nho nhỏ vì nó giúp tôi thành công rất nhiều… Ở trần
gian này, chỉ cần thi hành một điều tối quan trọng, là dâng lên Chúa Giêsu
tất cả những hy sinh nho nhỏ. Sự thánh thiện không cốt tại làm việc này việc
khác, nhưng hệ tại ở trạng thái linh hồn. Linh hồn phải khiêm tốn phó thác
trong tay Thiên Chúa toàn năng, phải nhận biết mình yếu đuối và cương quyết
tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sau cùng, không được thất vọng vì những
lỗi lầm đã phạm, vì nên biết rằng, những trẻ nhỏ cũng thường ngã”.
Hoàn toàn tin tưởng, phó thác và yêu mến Thiên Chúa với
một tâm hồn đơn sơ, cởi mở và khiêm tốn, thánh nữ Têrêsa còn muốn yêu mến
Chúa bằng cách bắt chước đời sống các thánh. Có lần đau ốm chị đã nói với chị
em đến thăm: “Em cần của ăn cho tâm hồn, hãy đọc cho em nghe một truyện các
thánh”. Thế rồi để khuây khỏa trong lúc nằm liệt giường, người ta đã đọc cho
thánh nữ nghe chuyện thánh Phanxicô thành Assisi. Lần khác, ngài nói với chị
em nhà tập: “Em xin các chị hãy yêu mến các thánh và khẩn cầu các ngài, vì
các ngài là cha mẹ của chúng ta ở trên trời. Phần em, em luôn cầu xin các
thánh, mà nếu các thánh càng bỏ qua lời em, em càng mến yêu các đấng ấy. Em
sẽ sung sướng, nếu các chị làm cho em một bài thơ vui để em ca tụng các thánh
ở trên trời, vì đối với em, khi ca tụng các thánh thì cũng như chúc tụng
Thiên Chúa nhân lành qua các thánh vậy”.
Thánh nữ đã hứa làm mưa hoa hồng xuống trần gian. Và ngài
đã thực hiện với bao nhiêu phép lạ ngay sau ngày tạ thế. Trước hết là ngành
vạn tuế các chị nhà dòng đặt vào tay thánh nữ khi liệm xác. Ngành lá ấy, mười
ba năm sau, khi cải táng xác thánh lần thứ nhất, người ta thấy vẫn còn tươi
tốt trong quan tài. Một chị bị bệnh nhức óc lâu năm đã đến quỳ trước thi hài
và hôn chân thánh nữ, bỗng nhiên bệnh biến mất. Một chị khác lúc ấy đang ở
phòng riêng, tự nhiên ngửi thấy hương hoa ngào ngạt mặc dầu trong phòng không
có một bông hoa. Cũng chính lúc thánh nữ qua đời, có chị trông thấy một mũ
triều thiên tráng lệ bay từ đất lên trời biến trong làn mây xanh thẳm. Rồi
rất nhiều người đã được như ý nguyện nhờ lời bầu cử của thánh Têrêsa.
Với đời sống hãm mình, cầu nguyện, mến Chúa trong hết mọi
việc làm nhỏ mọn hằng ngày trong tinh thần Phúc âm và tận hiến, chị thánh chỉ
sống vỏn vẹn hai mươi bốn tuổi ở trần gian, nhưng đã lập công trạng rất nhiều
và tiến rất cao trên đỉnh trọn lành. Chị thánh đã sống âm thầm lặng lẽ trong
nhiệm vụ, sống mai danh ẩn tiếng trong tu viện khắc khổ, nhưng sau khi chết,
như để tưởng thưởng công trạng và nêu cao gương sáng cho hậu thế, chị thánh
đã sớm được Chúa nâng lên đài vinh quang. Năm 1925, nghĩa là sau khi Têrêsa
chết được 28 năm, Đức Giáo hoàng Piô XI đã phong ngài lên bậc hiển thánh của
Giáo hội. Hai năm sau, Đức Giáo Hoàng lại đặt thánh nữ làm bổn mạng các vị
thừa sai và các miền truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xavier. Ngoài
ra, biết bao tu viện, hội đoàn và nhiều thánh đường đã mang tên thánh nữ.
Ngày 19 tháng 10 năm 1997, Đức Gioan Phaolô II đã phong
Tiến sĩ Giáo hội cho thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, tức vị thánh nữ tiến sĩ
thứ ba trong Giáo hội.
Sùng mến thánh Têrêsa, không ai lại không nhận thấy: “Muốn
nên thánh, phải có tâm hồn đơn sơ, sống rất yêu và vì yêu Thiên Chúa ngay
trong nhiệm vụ mỗi ngày”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét