Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

Các linh mục trẻ G.p Đà Lạt du khảo truyền giáo Tây Nguyên.

THƯỜNG HUẤN – DU KHẢO
Không như những năm trước chỉ ngồi nghiên cứu trên sách vở, Thường Huấn năm nay, chúng tôi, 40 anh em Linh mục trẻ cùng với cha Tổng Đại Diện của giáo phận Đà lạt lên đường đến với những Trung Tâm Truyền Giáo. Đến tận nơi để được xem và nghe các nhà truyền giáo chia sẻ tinh thần và kinh nghiệm là sáng kiến của cha Tổng Đại Diện xuất phát từ nỗi niềm băn khoăn thao thức truyền giáo cho người Dân tộc của Đức Cha Antôn. Khi được thông báo, anh em chúng tôi rất phấn khởi, hăng say lên đường. Chúng tôi gọi chuyến đi này là: “Hành Trình Theo Chân Các Nhà Truyền Giáo.” Chúng tôi sẽ đi theo các ngài từ giáo phận Đàlạt đến giáo phận Kontum, Ban Mê Thuột và giáo phận Nha Trang.
Chiếc xe ô tô 50 chỗ ngồi khởi hành từ Nhà Thờ Chính Tòa vào lúc 5g00 sáng của ngày thứ 3 ngày 9 tháng 12 năm 2014 để lại sau lưng những “dòng suối hoa vàng” chảy dài từ đỉnh đồi xuống tận ven đường. Xe chúng tôi nhằm hướng Tây bắc thẳng tiến trên con đường quốc lộ 27. Nhiều cha gọi con đường quốc lộ 27 là con đường “hành xác,” nhưng riêng tôi thì tôi gọi là “đại lộ kinh hoàng.” Không kinh hoàng sao được trong khi một bên là vách núi cao chót vót, một bên là vực thẳm không đáy? Và như vậy, con đường này không dành cho những kẻ yếu tim, những con người “an phận thủ thường” mà chỉ dành cho những con người thích phiêu lưu mạo hiểm tìm kiếm trong mọi lãnh vực.
Tiếp Tế Nhiên Liệu Và Chiêm Ngắm Đại Lộ Kinh Hoàng
Hết quốc lộ 27, chúng tôi được chuyển sang con đường khác, con đường quốc lộ 14. Nhiều người gọi quốc lộ 14 là “con đường rồng.” Không hiểu tại sao người ta gọi là con đường rồng. Phải chăng là sự ngoằn nghèo lên xuống, uốn cong như một con rồng đang cuộn mình hay là nơi đây có núi Hàm rồng? Không biết là rồng như thế nào, nhưng thú thực tôi không thích cưỡi rồng một xíu nào bởi người ta đã cày xới 2/3 con đường.
Con đường rồng dẫn chúng tôi đến với trung tâm truyền giáo Pleikly, một trong những trung tâm truyền giáo lớn của giáo phận Kontum. Đức Cha Micae hẹn gặp chúng tôi tại đây lúc 17g 30 nhưng do sức khỏe không được tốt cho nên ngài đã xin lỗi và hẹn chúng tôi vào chiều ngày hôm sau. Không gặp được Đức Cha chúng tôi có dịp để chiêm ngưỡng hiện tại và hồi tưởng lại quá khứ hào hùng của các nhà truyền giáo nơi đây. Chính tại nơi đây của 45 năm trước, ngày 10 tháng 10 năm 1963, Đức Cha Paul Seizt đã chở 4 vị thừa sai dòng Chúa Cứu Thế đến giữa làng mạc núi rừng này. Trước sự ngơ ngác của các ngài, Đức Cha Paul Seizt đã đọc đoạn Tin Mừng Luca 10, 1 – 12 cho các ngài nghe rồi tuyên bố: Chúa Giêsu đã sai 72 môn đệ lên đường nay tôi sai dòng Chúa Cứu Thế đến với những người J'rai ở nơi đây. Nói đoạn, ngài quay mặt về 4 hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc giơ tay làm dấu thánh giá ban phúc lành nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, rồi lên xe trở về Pleiku. Các thừa sai ở lại, ngơ ngác vào làng, và bắt đầu một cuộc sống trở nên người J'rai vì người J'rai.
Nhà Thờ Pleikly Trong Buổi Chiều Tàn
Mãi đến năm 1971 các cha dòng Chúa Cứu Thế mới dựng được ngôi nhà thờ này. Ngôi nhà thờ này là một ngôi nhà sàn cổ kính với màu đỏ đậm. Nhìn từ trên cao xuống chúng ta thấy nhà thờ giống như một cây thánh giá khổng lồ nằm chênh vênh trên mặt đất. Bên trong nhà thờ được phân chia một cách rất hợp lý: phần giao nhau của 2 chữ thập là bàn thờ. Phía tay trái bàn thờ là nhà tạm được ngăn cách bởi 2 bức màn đỏ tạo thành nhà nguyện. Phần rộng nhất đối diện với bàn thờ là phần của cộng đoàn tham dự thánh lễ. Bên phải bàn thờ là ca đoàn cùng với những dụng cụ âm nhạc: đàn tơ rưng, chiêng… Ngôi thánh đường đứng hơi chếch về một phần tư khu đất, tạo nên một khoảng sân rất rộng rãi và thoáng mát, cho nên, vào những buỗi lễ trọng bên trong nhà thờ không thể chứa đủ, thì giáo dân lại tập trung ở sân thánh đường. Chúa Nhật tuần trước, ngày 7 tháng 12 năm 2014, trung tâm đã lọng trọng cử hành thánh lễ tạ ơn cho một nữ tu người J'rai, người con đầu tiên của buôn làng, ở sân thánh đường ngoài nhà thờ.
Bóng Tối Đang Tìm Cách Bao Trùm Nhà Thờ
Tạm biệt Pleikly vào lúc trời đang đỏ rực như một đám cháy khổng lồ, những áng mây như một hòn than sắp tàn để nhường chỗ cho bóng đen đang từ từ len lỏi lên trên các ngọn cây cổ thụ và cuối cùng là bao trùm cả trung tâm Pleikly. Xe của chúng tôi cứ thế bước đi trong đêm tối. Đi được hơn một tiếng đồng hồ, mọi người đang chập chờn thiu thiu ngủ thì chiếc xe bỗng dưng dừng lại. Một người đàn ông mặc vest bước lên xe. Mọi người còn đang ngơ ngác thì nghe được tiếng của Đức Cha Micae cất lên: “Chương trình có sự thay đổi, chúng ta không thể ngủ lại ở Pleiku được mà phải đến Tòa Giám Mục Kontum. Và, nếu ngày mai không được phép đến với Đức Mẹ Măng Đen thì phải trở về Pleiku ngay. Đây là tờ chương trình. Các cha cứ theo chương trình mới này nhe.” Rồi ngài chào tạm biệt, hẹn gặp lại vào chiều mai ở Pleiku.
Đức Cha Micae Thông Báo Chương Trình Có Sự Thay Đổi
Kontum, Thứ 4 Ngày 10 Tháng 12 Năm 2014
Đúng 4giờ 45 chúng tôi có mặt ở Nhà thờ chính tòa để dâng Thánh lễ đồng tế với cha Sở Nhà thờ chính tòa. Được nghe nói nhiều về nhà thờ Gỗ nhưng hôm nay nhiều người trong chúng tôi mới có dịp được chiêm ngưỡng tận mắt ngôi nhà thờ Gỗ 100 tuổi này. Nhà thờ nằm bên dòng sông Đăk Bla trong xanh, thơ mộng. Kiến trúc của nhà thờ theo kiểu Roman cổ điển kết hợp với kiến trúc nhà sàn truyền thống của đồng bào Ba Na. Nhà thờ không sử dụng gạch đá, bê tông cốt thép hay vôi vữa sơn chét mà chỉ sử dụng những cây gỗ cà chít cùng với những bức tường bằng đất trộn rơm. Cung thánh của nhà thờ được trang trí theo kiểu hoa văn của các dân tộc ở vùng Tây Nguyên, gần gũi với đời sống hàng ngày nhưng vẫn gợi lên được những cảm giác thiêng liêng, trang trọng. Khu hoa viên của nhà thờ có nhà rông mái thật cao và có các bức tượng tạc từ rễ cây làm thành một không gian mang đậm màu sắc đại ngàn. Ngoài thánh đường chính, nhiều công trình khác cũng được xây dựng rất tinh tế và cũng không kém phần mỹ thuật chẳng hạn như: nhà thờ, nhà tiếp khách, nhà trưng bày các sản phẩm dân tộc và tôn giáo…
Ngôi Nhà Thờ Gỗ 100 Tuổi
Nhìn ngắm nhà thờ khiến tôi nhớ đến công lao của các vị thừ sai đã từng sống và làm việc ở đây. Cha Do đã khơi nguồn truyền giáo ở nơi đây bằng việc sai người em của mình là thầy Thám đến đây để khai khẩn vùng đất này. Sau khi thầy Thám đã gầy dựng được một số cơ sở nhà cửa, có dân cư thì cha Hòa được sai đến để phụ trách công việc mục vụ. Dưới sự dẫn dắt khôn khéo của cha Hòa, dân chúng kéo đến mỗi ngày một đông. Để đáp ứng nhu cầu tôn giáo cha Hòa đã cho làm một nhà nguyện nhỏ. Và rồi, khi cha Vialleton Truyền được cử làm Bề trên ở vùng đất này thì ngài đã bỏ ra 5 năm để xây dựng một ngôi thánh đường theo phong cách Tây Nguyên. Đau lòng thay khi ngài đi dưỡng bệnh ở Hồng Kông thì ngôi nhà thờ ở nhà bị cháy rụi. Ngài đành phải dựng tạm một ngôi nhà bằng tranh để dâng lễ, cầu nguyện cho đến hết đời. Đến khi ngài qua đời thì cha Joseph Deucrouille Đệ được cử về đây. ChaJoseph Deucrouille đã cho khởi công xây dựng ngôi thánh đường độc đáo này vào giữa tháng 3 năm 1913. Nhờ có sự cộng tác đắc lực Cha Kemlin và cũng là một kiến trúc sư tài ba, đến đầu năm 1918 công trình đã được hoàn chỉnh. 
Cha Sở Nhà Thờ Chính Tòa Ân Cần Tiếp Đón
Theo như lời của cha Gioan B. Trần Quang Truyền, cha Sở nhà thờ chính tòa và cũng là người con của giáo phận Đàlạt thì, trong viên nhà thờ ngày nay có: 1 cô nhi viện với khoảng 200 em, 1 cơ sở may, dệt thổ cẩm, 1 nhà nội trú cho 100 em từ lớp 10 cho đến cao đẳng, 1 bệnh viện miễn phí cho anh chị em dân tộc, 1 cơ sở đào tạo và tạo việc làm cho những mảnh đời không may... Nghe Cha xứ kể đến đây thì tôi chợt nhớ đến hình ảnh tối hôm qua khi gặp Đức Cha Micae ở Hàm rồng. Đúng là hình ảnh của người mục tử lặn lội đi tìm kiếm những con chiên lạc đem về một đàn duy nhất là nhà thờ chính tòa. Con nào gầy còm, ốm đau, bệnh tật… tất cả đều được chăm sóc một cách chu đáo hết sức.
Các Cha Gặp Gỡ Giao Lưu Với Các Em Trẻ Mồ Côi
Rời nhà thờ, chúng tôi đến với Dòng Ảnh Vảy. Dòng Ảnh Vảy là một dòng tu có một không hai ở Giáo hội Việt nam. Dòng chỉ dành cho những người nữ dân tộc trên miền cao nguyên, như: Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng…
Các Sơ sẽ dùng chính ngôn ngữ và đời sống phục của mình để đi vào các buôn làng “cảm hóa” anh chị em mình. Ngoài ra, các Sơ còn có các cơ sở cô nhi viện để chăm sóc phục vụ cho các em dân tộc mồ côi, tàn tật, phong hủi… Tất cả những công việc các Sơ làm đều nhằm mục đích truyền giáo. Thế nhưng, 67 năm qua, Hội dòng vẫn chưa phát triển được, mới chỉ có 135 chị em, 30 cộng đoàn. Biết bao khó khăn đang chờ đợi các Sơ ở phí trước, nhưng các Sơ vẫn lạc quan vui vẻ, vì trái tim tận hiến cho anh em đồng bào của mình là nguồn năng lực giúp các Sơ vượt qua mọi khó khăn.
Các Sơ Rất Hạnh Phúc Khi Được Chụp Hình Với Các Cha
Tiếp đến, chúng tôi trở về phòng truyền thống của giáo phận Kontum để tìm hiểu đôi nét về vị truyền giáo tiên khởi có tên là Sáu Do.
Nằm ở ngay chân cầu thang trước khi bước lên phòng thống là một bức tượng bằng gỗ được điêu khắc cả bốn mặt. Theo như lời của người ở đây thì bức tượng bốn mặt này tượng trưng cho 4 dân tộc chính của giáo phận Kontum là: Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng, Gia Rai.
Bức Tượng Bốn Mặt Đại Diện Cho 4 Sắc Tộc Chính Ở Kontum
Đức Cha Quénot Thể sai Thầy Phó Tế Fx. Nguyễn Do tìm đường lên Kontum truyền giáo. Ngài nói: "Anh cứ xẻ rừng mà đi, khi gặp con sông lớn, dừng lại lập làng và rao giảng Tin Mừng." Khi vừa đạp chân lên đất Kontum Thầy Sáu Do đã cầu nguyện: “Hãy Ngợi Khen Chúa Hỡi Muôn Dân.”
Đức Cha Quenot Thể Sai Thầy Sáu Do Tìm Đường Lên Kontum Truyền Giáo
Thầy Sáu Do kết nghĩa anh em với ông Bok Kiơm (1950) một tù trưởng nổi tiếng về sự hung bạo và man rợ. Trước khi lên đường Đức Cha Quino Thể đã căn dặn Thầy Sáu Do, bằng mọi giá phải tránh ông tù trưởng Bok Kiơm. Thế nhưng, thánh ý Thiên Chúa quả thật là quá nhiệm mầu. Thiên Chúa đã để cho Bok Kiơm gặp Thầy Sáu Do ở dọc đường; và rồi, Ngài đã biến đổi Bok Kiơm như Ngài đã biến đổi Phaolô. Bok Kiơm đã kết nghĩa anh em với Thầy Sáu Do và trở thành ân nhân của các vị thừa sai trên miền truyền giáo Tây Nguyên này. Bức tượng này cũng hơi lạ, một người to lớn đứng trên đang nắm lấy tay phải của một người nhỏ hơn ở phía dưới. Một người to một người nhỏ phải chăng là muốn nói với mỗi người chúng tôi rằng, người bản địa thời xưa to lớn hơn người Kinh. Người to đứng trên thể hiện tư cách là chủ nhà tiếp đón khách và vị thừa sai đứng dưới thể hiện tinh thần của nhà truyền giáo. Và như vậy, người truyền giáo không phải là người đứng trên để phán xuống, nhưng là người theo gương Chúa Giêsu: Ta đến không phải là để cho người ta phục vụ nhưng mà là để phục vụ và hiến mạng sống mình.
Thầy Sáu Do Kết Nghĩa Anh Em Với Tù Trưởng Bok Kiơm
Khi nghe biết có cha Tổng Đại Diện cùng các cha trẻ trong giáo phận Đàlạt đến thăm phòng truyền thống của giáo phận Kontum, Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung đã ra tận nơi để đón tiếp rất ân cần. Mặc dù chưa đến thăm ngài, nhưng ngài đã đi bước trước để đến với mỗi người chúng tôi. Chưa cần phải nói, hình ảnh Đức Cha đến gặp gỡ bắt tay từng người dường như là lời nhắn gửi với mỗi người chúng tôi, người truyền giáo phải là người xóa bỏ đi chức tước địa vị để tìm đến với người khác chứ không phải là chờ đợi người khác đến với mình. 
Cuộc Gặp Gỡ Trong Chớp Nhoáng
Đúng 11g 00 thì xe chúng tôi đến được chân Đức Mẹ Măng Đen. Đức Mẹ Măng Đen nằm cách thị xã Kontum 50km về hướng đông bắc, và cách thành Phố Pleiku 110km. Sở dĩ người ta gọi là Măng Đen là bởi vì nơi đây là thôn Măng Đen, xã Đắk Long, huyện Kon Plông của tỉnh Kontum. Cũng có người gọi là Đức Mẹ Kon Plông. Không được dâng Thánh lễ, cho nên, chúng tôi đã quây quần dưới chân Mẹ để đọc kinh chung với nhau, để cầu nguyện cho Đức Cha Micae, Đức Cha Antôn và công việc truyền giáo của hai giáo phận chúng tôi. Thú thực, tôi đã có dịp đến với rất nhiều trung tâm hành hương nhưng chưa thấy ở nơi đâu lại có một tượng Đức Mẹ xấu xí như thế này. Không biết có phải là do Mẹ quá xấu hay đang còn mải mê kiếm sống mà hôm nay chẳng có được mấy người đến với Mẹ. Hình ảnh lưa thưa một vài người đến cắm vài ba bông hoa đọc đôi ba câu kinh rồi bỏ đi khiến tôi nhớ đến bài báo nói về bà Ding, quê ở tỉnh Chiết Giang bị người con trai từ chối không gặp chỉ vì anh ta nghĩ rằng gặp một người mẹ xấu xí như thế sẽ khiến cho anh ta bị mất thể diện. Nghĩ đến đây, không hiểu tại sao tôi lại rưng rưng nước mắt. Và rồi, tôi đã dâng lên Mẹ Măng Đen tất cả những con người bị phung hủi, bị khuyết tật về thể xác cũng như về tâm hồn, những người mẹ bị những người con từ chối chỉ vì xấu xí…
Đức Mẹ Quyền Năng Với Hai Bàn Tay Cụt
Cầu Nguyện Cho 2 Đức Cha Của Hai Giáo Phận
Chia tay Mẹ Măng Đen, theo chương trình đã định, chúng tôi lên đường trở về Pleiku. Trên đường về, chúng tôi có ghé vào nhà thờ Konxơmluh. Nhìn thấy ngôi nhà thờ nguy nga lộng lẫy, tọa lạc trên một ngọn đồi thoáng đãng, phỏng theo mô-típ của nhà sàn dân tộc Tây Nguyên khiến tôi không khỏi nhớ đến các vị truyền giáo của 120 năm trước. Người có công đầu tiên phải kể đến cha Gioan B. Maria Guerlach hay còn gọi với cái tên thân mật của người dân nơi đây là Bok Kanh. Bok Kanh là một nhà truyền giáo nhiệt thành đã dạy dỗ và đã rửa tội cho hơn 1.200 người ở nơi đây. Ngày nay, Kon Xơmluh là trung tâm truyền giáo do các cha Vinh Sơn coi sóc.
Nhà Thờ Kon Xơmluh
Rời khỏi Kon Xơmluh, chúng tôi đến với Plei Chuét nơi có Đức Cha Micae đang chờ chúng tôi ở đó. Sau khi dùng cơm tối chung với nhau, Đức Cha đã dẫn chúng tôi sang nhà thờ Plei Chuét để giao lưu gặp ở với anh chị em dân tộc J'rai ở nơi đây. Đến nơi, với sự dắt dìu của các em thiếu nhi cũng như người lớn trong xứ, chúng tôi được bước vào một đêm hội lung linh huyền ảo. Những ánh lửa bập bùng phản chiếu lên những gương mặt rực sáng xua tan đi đêm đen lạnh giá của những ngày cuối năm. Những bàn tay dập dìu nối vòng xoang không phân biệt chức tước địa vị, màu da sắc tộc cùng với những bước chân uyển chuyển nhịp nhàng khiến cho tiếng cồng chiêng lại càng ngân vang hơn nữa. Đêm hội dường như kéo dài ra không dứt bởi tiếng trống bập bùng của Đức Cha Micae người dẫn đầu trong đội cồng chiêng.
Xin Chúa Thánh Hóa Giờ Chơi
Vũ Điệu Êđê
Lửa Tàn Nhưng Tiếng Trống Bập Bùng Không Dứt
Plei Chuét, Thứ 5, Ngày 11 Tháng 12 Năm 2014
Vào lúc 4g30 sáng của ngày thứ 5, ngày 11 tháng 11 năm 2014 chúng tôi có mặt ở nhà thờ Plei Chuét để dâng thánh lễ đồng tế với Đức Cha Micae. Là một Linh mục, tôi đã được tham dự rất nhiều Thánh lễ ở nhiều nhà thờ khác nhau trên khắp mọi miền đất nước, có những Thánh lễ với sự hiện diện của hàng chục Giám mục, hàng trăm linh mục và hàng chục ngàn giáo dân tham dự; thế nhưng, chưa có thánh lễ nào khiến cho tôi phải ngất ngây như thánh lễ hôm nay. Mọi người đều thỏa sức thả hồn mình vào trong những cử hành phụng vụ. Họ thống hối bằng những hành động cụ thể. Họ say sưa ca hát những khúc ca của người dân tộc kèm theo tiếng đàn tơ rưng và những tiếng chiêng ngân vang. Nhà thờ không có bàn quỳ và cũng chẳng có ghế ngồi. Tôi được biết đây là ngôi nhà thờ đầu tiên dành cho anh chị em giáo dân người dân tộc J’rai. Các cha dòng Chúa Cứu Thế đã xây dựng nhà thờ theo kiểu của những buôn làng ở phía bắc của vùng Tây nguyên thuộc hai tỉnh Gia Lai và Kontum. Mỗi buôn làng dựng một ngôi nhà sàn lớn, được trang trí rất đẹp, nằm ở giữa buôn làng gọi là Nhà Rông. Nhà Rông ở giữa buôn làng, nơi diễn ra những sự kiện quan trọng như lễ tết, hội làng, đám cưới, lễ cầu nguyện và là nơi hội họp của cả buôn làng.
Hành Động Thống Hối Trong Thánh Lễ Của Anh Chị Em Dân Tộc
Mọi Người Cùng Đọc Kinh Lạy Cha
Nền Nhà thờ là những miếng gỗ nhỏ ráp lại với nhau tạo nên một khoảng không rộng lớn chiếm trọn cả khu nhà thờ. Khu vực trong cùng là bàn thờ với một bức tượng Chúa Cứu Thế trên thánh giá, được khắc bằng gỗ rất công phu và mỹ thuật. Nhà Tạm được làm theo hình dáng của một cái gùi. Những vì kèo cũng được trang trí bằng những hình ảnh tôn giáo. Tám cây cột bằng cây đại thụ, thẳng chắc chống đỡ mái nhà nhọn xuôi dốc, lợp bằng tôn màu đỏ. Mọi thứ đều ăm khớp với nhau, tạo nên một ngôi nhà thờ có một không hai trên thế giới.
Nhà Tạm Được Làm Bằng Một Chiếc Gùi Theo Văn Hoá Của Người J’rai
Nhà Thờ Plei Chuét
Đúng 8giờ sáng, chúng tôi được Đức Cha Micae mời lên phòng hội để ngài chia sẻ về tinh thần và kinh nghiệm truyền giáo của ngài. Cùng chia sẻ với Đức Cha Micae có cha Giuse Trần Sĩ Tín (CSsR), cha Tôma Nguyễn Văn Thượng, cha Bartôlômêô Nguyễn Đức Thịnh, cha Tổng Đại Diện giáo phận Kontum Phêrô Nguyễn Vân Đông.
Cha Giuse Trần Sĩ Tín được chia sẻ trước. Ngài chia sẻ sứ vụ Pleikly hay còn gọi là kiếp sống “quốc cày” cho mọi người nghe. Ngài nói: Sở dĩ năm 1971 ngài và cha Mầu bị bắt đưa qua biên giới Campuchia là bởi vì chỗ ngài ở có đánh nhau giữa Mỹ Ngụy và Cộng Sản. Hai cha sợ quá không biết chạy đi đâu nên xin thủ trưởng cho sang làng bên cạnh. Thủ trưởng nói, để đi hỏi cấp trên rồi mới trả lời. Chẳng hiểu sao khi thủ trưởng trở về thì thủ trưởng lại bắt ngài đưa đi. Ngài cũng không biết là họ đưa mình đi đâu, chỉ sau này mới biết là họ đã đưa mình qua biên giới Campuchia. Điều mà ngài sợ nhất trong thời gian này là sốt rét rừng. Ngài bị sốt rét suốt từ năm 1971 cho mãi đến năm 1987. Và cũng trong thời gian này, ngài được người dân tộc gọi là “Vua Cá,” và ngài rất tự hào về điều này. Ngài học được Dân tộc ở nghề bắt cá, đan chài, đan lưới… và họ cũng rất phục ngài ở tài bơi lội. Cứ âm thầm sống kiếp sống như thế cho mãi đến năm 1988 người ta mới bắt đầu xin ngài rửa tội. Đến năm 2000 thì ngài đã rửa tội được 1000 người, chủ yếu là người J’rai. Ngài rửa tội không ở một nơi cố định. Đi đến đâu ngài rửa tội đến đó. Ngài không đòi buộc họ phải đến nhà thờ vì thủ tục ra khỏi làng lúc bấy giờ quá phức tạp, nếu không muốn nói là không được. Và cũng nhờ vào cái lối rao giảng, rửa tội ngay tại làng tại nhà như thế, người dân đã nhận ra sự hiện diện của Chúa và kể cho nhau nghe quá trình hình thành đức tin của mình. Cho nên, giáo dân là đứng hàng đầu. Không có giáo dân là không có truyền giáo. Giáo dân, họ có thể len lỏi vào bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Giáo dân, họ cũng có thể chấp nhận những khó khăn, nguy hiểm để làm chứng cho Chúa Giêsu. Giáo dân có thể vào những nơi, làm những việc mà linh mục không thể làm được. Hãy chú ý đến việc thành lập những đoàn giáo dân thừa sai.
Cha Giuse Trần Sĩ Tín Chia Sẻ Tinh Thần Và Kinh Nghiệm Truyền Giáo Của Ngài
Điều thứ hai mà ngài muốn chia sẻ với các cha muốn đi truyền giáo cho người dân tộc là, phải học tiếng của họ. Từ chỗ chúng ta biết tiếng, chúng ta sẽ học được văn hóa của họ. Mỗi một dân tộc đều có 1 nền văn hóa rộng rãi và sâu sắc. Trong văn hóa bản địa đã có sẵn hạt giống mà Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị. Cho nên, trước khi chúng ta tới thì đã có Chúa ở đó rồi. Chúng ta phải đi tìm Chúa ở nơi những người nghèo và văn hóa của họ. Tiếng nói của họ mà chưa làm chủ được thì làm sao biết được văn hóa của họ? Không biết được văn hóa của họ thì làm sao mà đi vào lòng của họ được? Hãy học văn hóa của họ để hội nhập giữa văn hóa đức tin với văn hóa của người bản địa.
Tiếp nối về vấn đề hội nhập văn hóa đức tin với văn hóa bản địa của cha Giuse Trần Sĩ Tín, Đức Cha Micae cũng nhấn mạnh: Các Cha có biết tại sao mà người Trung quốc ghét đạo như thế không? Sở dĩ mà người Trung Quốc ngày nay vẫn còn hận đạo Công giáo của chúng ta chỉ vì là, những giới hạn văn hóa của các nhà truyền giáo. Vua Khang Hy, Hoàng Đế Trung Hoa, rất có cảm tình với Kitô giáo, đến nỗi các cha dòng Tên hy vọng ông sẽ trở lại đạo. Năm 1692, ông đã ra chiếu chỉ cho phép Kitô giáo được tự do truyền đạo trên toàn quốc. Trong triều đình có đến 3 linh mục dòng Tên làm thượng thư.
Khi mà chính tay ông viết 2 chữ “Kính Thiên” treo ở trước cửa Nhà thờ chính tòa Bắc kinh thì vị thừa sai giật xuống. Một vị Hoàng Đế của Á Đông bị một vị thừa sai leo lên giật tấm bảng mà do chính tay Đức Vua viết thì họ hận như thế nào? Thế nhưng, Khang Hy vẫn coi như không. Khi các vị thừa sai bước vào chầu Khang Hy không chịu bỏ giầy bỏ dép, không chịu bái gối các quan quyền phản đối, Khang Hy bảo để cho bọn mũi lõ đó đứng cũng được, không sao cả, ta cho, cứ việc đứng, muốn ngồi cũng được.
Đến khi Maigret là giám mục Macao, đại diện Tòa thánh dẫn vị sứ thần lên Bắc kinh vào chầu Khang Hy và nói, thờ kính tổ tiên là tôn giáo, Khang Hy nói, ta xác định rõ, nghi thức thờ cúng tổ tiên là hoàn toàn dân sự không dính dáng gì đến tôn giáo cả. Maigret thì cứ khẳng định là tôn giáo. Cuối cùng, Khang Hy hỏi Maigret là giám mục Macao. Ông đã đọc sách của Trung Quốc chưa? Maigret trả lời: Chưa. Khang Hy nói, ông có hiểu trong sách luận ngữ và đạo đức kinh nói gì về việc này không? Không hiểu, bởi không biết tiếng. Khang Hy nói tiếp, các ông sang truyền giáo mà các ông không biết tiếng thì làm sao các ông biết được văn hóa?
Trong khi Vatican ra lệnh cấm, Vua Khang Hy còn tình nguyện gửi một phái đoàn sang Tòa Thánh, xin yết kiến Đức Giáo Hoàng để thanh minh nghi thức tổ tiên không phải là tôn giáo. Đợi đến 3 năm Vatican cũng không tiếp.
Cuối cùng, Vua Khang Hy phải ra chiếu chỉ cấm đạo. Các nhà nghiên cứu coi lại, chiếu chỉ cấm đạo của Vua Khang Hy chỉ nhắm tới ông Maigret mà thôi. Vua Khang Hy không cho áp dụng cấm đạo ở bất cứ nơi nào cả, trừ cá nhân Maigret là giám mục không biết tiếng Trung Hoa, không biết văn hóa Trung Hoa mà dám quả quyết thờ cúng tổ tiên là một tôn giáo để Tòa thánh có những quyết định sai lầm. Maigret không được ra khỏi Tòa giám mục Macao cho đến lúc chết. Giáo hội đã bỏ lỡ cơ hội truyền giáo cho người Trung Hoa chỉ vì vấn đề văn hóa.
Đức Cha Micae đưa ra kết luận: “Nếu chủng sinh của giáo phận Kontum không biết tiếng dân tộc thì không được truyền chức.
Đức Cha Micae Chia Sẻ Tinh Thần Và Kinh Nghiệm Truyền Giáo Của Ngài
Bài chia sẻ thứ hai của Đức Cha Micae là bài chia sẻ dựa trên “Tông Huấn Niềm Vui của Tin Mừng, số 25” của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài nói, đa số chúng ta được đào tạo để làm công việc mục vụ. Có một Giám mục chia sẻ với ngài về việc xảy ra khi giảng tĩnh tâm cho các linh mục. Khi Giám mục nói về việc truyền giáo thì một linh mục khoảng 51 tuổi đứng lên trả lời rằng: “Thưa Đức Cha con học ở Đại Chủng Viện, cha giáo dạy chúng con rằng, nhiệm vụ của cha là Thánh lễ. Công việc truyền giáo là công việc của Giám mục và giáo dân.” Một linh mục đã nói với Giám mục như thế.
Do phép rửa tội, mọi thành viên của dân Chúa phải trở nên những môn đệ truyền giáo, những nhà truyền giáo theo mức độ mà họ gặp được tình thương của Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: không thể để tình hình tiếp tục như thế này được. Việc quản trị thuần túy đã trở nên bất cập. Phải thường xuyên trong trạng thái truyền giáo. (X. Tông Huấn, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 25). Có một cha dòng Phanxicô đã chia sẻ với ngài về việc đến một nhà thờ có bảng thông báo: ngày này giải quyết vấn đề này, giờ này giải quyết việc kia… Cha dòng Phanxicô đưa ra lời nhận xét, cha xứ này không có tinh thần truyền giáo. Ông đã không đến với người ta khi người ta đến với ông mà ông cũng lại giới hạn. Nhu cầu tâm linh là nhu cầu không giới hạn vào giờ giấc nào cả. Phải thường xuyên trong trạng thái truyền giáo. Nếu cần, các linh mục trong giáo phận Kontum cứ bỏ dâng thánh lễ đồng tế mà giải tội cho giáo dân, khi họ có nhu cầu. Có những người họ bị ma quỷ ràng buộc cho đến phút cuối họ mới thoát ra được, khi thoát ra được thì đến xưng tội. Không đến với người khác, người khác đến với mình thì đừng tìm cách trốn tránh.
Đức Cha Micae Say Sưa Nói Về Vấn Đề Truyền Giáo
Tinh thần truyền giáo của Đức Cha Micae quả thật là rất đáng khâm phục. Ngài là một con người say sưa với công việc truyền giáo. Ngọn lửa truyền giáo trong ngài luôn hừng hực bừng cháy bao trùm bất cứ ai đến gần ngài. Ngài tận dụng tất cả mọi không gian, thời gian để truyền giáo, để chia sẻ về kinh nghiệm truyền giáo. Thậm chí, trong khi chờ đợi chủ quán dọn thức ăn, ngài cũng tranh thủ thời gian để chia sẻ với các cha về truyền giáo và kinh nghiệm truyền giáo của ngài.  
Ban Mê Thuột, Thứ 6 Ngày 12 Tháng 12 Năm 2014
Đúng 8giờ 00 chúng tôi có mặt ở phòng hội của Tòa giám mục Ban Mê Thuột để nghe Cha Gioan B. Nguyễn Minh Hảo trưởng ban truyền giáo của giáo phận Ban Mê Thuột chia sẻ về công việc truyền giáo của giáo phận.
Cha Gioan B. Nguyễn Minh Hảo Trưởng Ban Truyền Giáo Của Giáo Phận Ban Mê Thuột Chia Sẻ Về Công Việc Truyền Giáo Của Giáo Phận.
Trước hết, cha cho biết về tình hình địa lý, dân số của giáo phận Ban Mê Thuột. Giáo phận Ban Mê Thuột gồm tỉnh Đăklăk, Đăk Nông và một phần của tỉnh Bình Phước (Thị xã Đồng Xoài, huyện Bù ĐăngBù Đốp và Phước Long). Phía Bắc giáp Giáo phận Kontum. Phía Đông giáp Giáo phận Nha Trang. Phía Đông Nam giáp Giáo phận Đà Lạt. Phía Nam giáp Giáo phận Xuân Lộc. Phía Tây Nam giáp Giáo phận Phú Cường. Phía Tây giáp tỉnh Mondunkini của Cambodia. Theo thống kê của giáo phận năm 2013 thì có diện tích 24.462,44 km2, dân số trên toàn giáo phận có: 2.837.911 người, trong đó có 408.183 là người Công giáo, chiếm 14,38% dân số, với 8 giáo hạt, 99 giáo xứ và 71 giáo họ với 116 linh mục (trong đó 93 linh mục thuộc Giáo phận và 13 linh mục thuộc các dòng tu). Giáo phận cũng có 35 tu huynh, 40 chủng sinh và 350 nữ tu.
Với tình hình địa lý và số dân chưa biết Chúa còn nhiều như thế, cho nên, ở đây mọi người, mọi nhà, mọi cộng đoàn đều phải lo truyền giáo. Công việc truyền giáo phải được ưu tiên hàng đầu. Có những người, những nhà, những cộng đoàn chỉ chuyên lo công việc truyền giáo chứ không nuôi dạy trẻ hay làm kinh tế dưới bất cứ hình thức nào. Công việc truyền giáo cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngoài những hình thức đến với các buôn sóc để truyền đạo thì giáo phận còn tổ chức truyền giáo bằng các hình thức xây dựng các lưu xá. Giáo phận có 9 lưu xá cho anh chị em sắc tộc trải dài trên 3 tỉnh. Lưu xá là nơi quy tụ đủ mọi hạng người, mọi màu da sắc tộc, không phân biệt niềm tin tôn giáo… Tất cả đều được lo ăn lo học chỉ với một điều kiện duy nhất là, phải tham gia các sinh hoạt đức tin. Từ lưu xá, các cha sẽ truyền nhiệt huyết, huấn luyện tông đồ và tìm kiếm các nhân tố cho các giáo buôn giáo sóc sau này.
Uỷ Ban Loan Báo Tin Mừng của giáo phận gồm có 26 cha, 11 nữ tu các dòng và 22 giáo dân, có trách nhiệm điều hành 18 vùng truyền giáo. Tỉnh Đắc Lăk có 7 vùng, Đắc Nông có 6 vùng, Bình Phước có 5 vùng. Vùng truyền giáo là một tập hợp gồm các giáo xứ, giáo họ ở gần nhau dễ liên lạc với nhau. Trong một vùng truyền giáo thì có một ban điều hành gồm có 1 hoặc 2 cha đứng đầu và các trưởng Ban Loan Báo Tin Mừng của các giáo họ, giáo xứ trong vùng. Ban Loan Báo Tin Mừng lo những công việc như: Truyền giáo, tái truyền giáo, bác ái truyền giáo, dịch thuật, đào tạo, tĩnh huấn. Ngoài những hình thức trên Ban Loan Báo Tin Mừng còn có một hình thức khác nữa là, truyền giáo bằng viễn thông, báo chí. Mỗi tháng gửi đến các nhà thờ 1 tờ báo nhỏ 20 trang để các cha xứ dán ở các bảng thông báo của giáo xứ. Các hình thức tổ chức chưa hoàn bị nhưng cũng đã tương đối. Vấn đề mà cha lo lắng nhất là, tinh thần truyền giáo của mọi người chưa cao. Xin Cha Tổng Đại Diện và quý cha cầu nguyện thật nhiều cho công cuộc truyền giáo của giáo phận chúng con.
Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản Chia Sẻ Về Kinh Nghiệm Truyền Giáo
Sau bài chia sẻ cha Gioan B. Nguyễn Minh Hảo là bài chia sẻ của Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản. Ngài chia sẻ, trước năm 1975 thì có những cha đặc trách chuyên lo cho người Dân tộc; và vì thế cho nên mới có Trung tâm mục vụ sắc tộc. Sau năm 1975 thì việc đi vào các buôn làng rất khó. Đức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai và Đức Cha Giuse Trịnh Chính Trực đã đổi chiến thuật. Những giáo xứ nào có người Dân tộc thì cha quản xứ phải có trách nhiệm chăm sóc cho người Dân tộc. Bốn năm trở lại đây thì giáo phận đã đề cử cha Gioan B. Nguyễn Minh Hảo làm trưởng Ban Loan Báo Tin Mừng. Ngài vừa làm quản lý Trung tâm mục vụ sắc tộc vừa có nhiệm vụ lên phương hướng điều hành trong công việc truyền giáo, tái truyền giáo cho cả giáo phận. Mỗi giáo xứ, giáo họ biệt lập đều có Ban Loan Báo Tin Mừng. Nếu giáo xứ toàn người Kinh thì Ban Loan Báo Tin Mừng người Kinh lo cho anh em Dân tộc ở những vùng xung quanh. Nếu xứ có cả người Kinh và người Dân tộc thì Ban Loan Báo Tin Mừng tự lo cho nhau.  
Vấn đề thứ 2 mà ngài muốn chia sẻ là: Cần phải chấn chỉnh lại một số vấn đề về đời sống đức tin và luân lý của những người đã được rửa tội. Sở dĩ mà đời sống đức tin và luân lý của một số người không chuẩn là bởi vì hoàn cảnh khó khăn. Sau năm 1975 các linh mục đi vào các buôn làng rất khó, nên không thể tiếp cận với anh em Dân tộc thường xuyên được. Không được chăm sóc, anh em sống đạo được như thế nào thì hay thế đấy. Anh em còn giữ được đức tin là khá rồi. Ví dụ, cách đây 10 năm, những anh em Dân tộc ở vùng Quảng sơn, Quảng trực ở những vùng mà ngày xưa đã là Công giáo thì các linh mục đâu có bao giờ được bước chân vào. Vì thế, các cha thừa sai hướng dẫn họ như thế nào thì từ sau năm 1975 họ vẫn tiếp tục sống như thế. Từ Quảng Trực xuống Bù Đăng đi đường rừng khoảng 70 Km. Mỗi lần có con sinh ra thì họ phải đem mãi xuống Bù Đăng để rửa tội. Khi lớn, có những đôi thì lãnh nhận hôn phối được, có những đôi thì không thể. Tình trạng rối rất nhiều. Thiếu linh mục chăm sóc mục vụ. Bây giờ thì số các linh mục trong giáo phận cũng đã có được 130 Linh mục triều trong tổng số 410 ngàn giáo dân. Trong những năm tới, các Linh mục sẽ đi vào các vùng sâu vùng xa để chăm sóc mục vụ. Cần phải tiếp cận trực tiếp với anh em để làm cho văn hóa của anh em và văn hóa của Tin Mừng có sự hội nhập. Cần phải giúp cho anh em sống Tin Mừng ở trong nền văn hóa của anh em.
Đối với người Tin Lành, khi họ thành lập nhóm họ không cần phải có nhiều đất. Họ chỉ cần 5 m2 là họ có thể lập nhà nguyện. Và như vậy cho nên, họ lập nhóm trong các buôn, sóc tương đối là dễ dàng. Trong khi, chúng ta đi truyền giáo ở các buôn sóc chúng ta lại thường hay có suy nghĩ rằng, phải phát triển thành một giáo xứ như người Kinh. Chúng ta cứ đòi hỏi giáo xứ phải có từ 1 đến 2 hécta trở nên. Nhà thờ, nhà giáo lý phải tiện nghi đầy đủ… Có lẽ chúng ta là những Linh mục người Kinh nên suy nghĩ theo kiểu của người Kinh. Đức Hồng Y Divas, Bộ Truyền Giáo chia sẻ với các Tân Giám Mục khi ngài làm sứ thần tòa thánh ở Nga rằng, “Đối với người Cộng Sản thì anh em đừng chờ đợi phải thương thuyết có đủ mọi điều kiện thuận lợi mới bắt tay làm. Đối với người Cộng Sản mà làm như thế thì không được. Đối với người Cộng Sản thì anh em cứ cắm dùi trước đã. Họ cho mình đối thoại ở trong mảnh đất nhỏ thì mình cứ đối thoại trong mảnh đất nhỏ. Nhờ những điểm nhỏ, chúng ta mới có thể lan rộng biên giới ra.” Khi bắt đầu đối thoại mà anh em cứ đòi phải đối thoại trong những mảnh đất lớn thì chẳng bao giờ có được. Đối với anh em Dân tộc, chúng ta đừng mơ ước tạo một giáo xứ kiểu mẫu như người Kinh. Phải tồn tại trước đã sau đó mới nói đến những chuyện khác. Tại sao chỉ có 5 m2 mà anh em Tin Lành sinh hoạt được, còn chúng ta lại đòi phải đầy đủ tiêu chuẩn này tiêu chuẩn khác?
Có một Sơ người Dân tộc Êđê, trước khi khấn, Sơ đã chia sẻ với Đức Cha Vinh Sơn rằng: “Con có một ao ước là các Sơ cho con được làm việc giữa lòng anh em Dân tộc.” Đức Cha hỏi tại sao? Sơ trả lời: “Con muốn học lại cách sống và tinh thần của anh em Dân tộc. Con là người Dân tộc nhưng con sống với các Sơ người Kinh, môi trường người Kinh và con có cách suy nghĩ theo kiểu của người Kinh. Và bây giờ, để làm việc với anh em Dân tộc, con muốn hội nhập lại trong văn hóa và cuộc sống của người Dân tộc.”
Cho nên, nhiều khi nói đến truyền giáo mình cứ muốn biến người khác trở thành những con người theo ý muốn của mình mà quên đi rằng, anh em cũng cần phải được phát triển một cách hài hòa trong môi trường mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Một bên là cách sống truyền thống của anh em, một bên là những đòi hỏi của xã hội tiến bộ, cần phải biết dung hòa. Một em bé 12 tuổi mà đã bước vào đời sống hôn nhân và gia đình. Tại sao vậy? Thiếu người chăm sóc mục vụ. Nếu chúng ta chăm sóc mục vụ tốt thì đời sống đạo của người giáo dân sẽ được nâng cao và nhờ đó mà công việc truyền giáo của chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc.    
Cha Tổng Đại Diện Giáo Phận Đàlạt Tham Khảo Ý Kiến Đức Cha
Sau bài chia sẻ của Đức Cha Vinh Sơn thì cha Tổng Đại Diện của giáo phận Đà Lạt muốn tham khảo ý kiến của Đức Cha về việc có nên lập một Hiệp hội riêng cho các chị em người Dân tộc để họ chuyên lo về công việc truyền giáo không? Đức Cha Vinh Sơn trả lời: Nếu thành lập một Hiệp hội riêng cho các chị em Dân tộc thì rất khó. Đa số Dân tộc ở vùng Tây Nguyên này theo chế độ mẫu hệ. Khi khấn tạm thì không có vấn đề gì nhưng khi khấn trọn thì có vấn đề về trách nhiệm với gia đình. Và vấn đề nữa là, nếu lập một Hiệp hội chỉ có người Dân tộc thì chúng ta sẽ phải lo cho họ về vấn đề tài chính. Họ không thể tự lo về vấn đề tài chính. Họ có thể làm những điều mà người khác gợi ý nhưng sáng kiến truyền giáo thì hơi yếu. Rất nhiệt tình nhưng khi người ngoài hù một câu là sợ.  (Xin các cha Dân tộc đừng buồn). Nếu một cộng đoàn có cả người Kinh và người Dân tộc thì sẽ có sự bổ túc cho nhau. Đây là hướng lựa chọn của giáo phận Ban Mê Thuột.
Theo chương trình đã định, sau bài chia sẻ của Đức Cha Vinh Sơn, chúng tôi sẽ đến với giáo xứ Êa Kmar. Trên đường đến với giáo xứ Êa Kmar, cha Gioan B. Nguyễn Minh Hảo, Trưởng ban Loan Báo Tin Mừng đã mời chúng tôi ghé vào giáo xứ Kim Phát, nơi có Ban Loan Báo Tin Mừng của giáo phận Ban Mê Thuột đang họp mừng bổn mạng thay cho ngày 03 tháng 12. Cha Phanxicô Xavie K’Brel đã đại diện cho anh em linh mục giáo phận Đàlạt nói riêng và đại diện cho đồng bào dân tộc K’Ho nói chung, chia sẻ những tâm tư ước nguyện của người Dân tộc cho mọi người nghe. Ngài nói: “Đức tin của người Dân tộc chưa sâu. Giống như một cái cây cần phải có bộ rễ ăn sâu trong lòng đất thì mới không bị trốc gốc, không bị khô héo. Đời sống hôn nhân và gia đình của người Dân tộc đang còn rất nhiều vấn đề cần phải chấn chỉnh. Tình trạng rối cũng rất nhiều. Nhiều gia đình Công giáo có con lớn tuổi rồi mà cũng chưa được rửa tội. Đời sống kinh tế của họ cũng đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Người nghèo còn rất nhiều. Chúng con rất cần có sự nâng đỡ của các cha người Kinh giàu kinh nghiệm truyền giáo. Các cha đã nâng đỡ chúng con rất nhiều. Chúng con cũng rất cần có sự hiện diện của người Kinh. Người Kinh đến có thể sẽ mất đất, nhưng không có sự hiện diện của người Kinh thì không thể có sự phát triển được. Xin mọi người tiếp tục yêu thương, nâng đỡ và cầu nguyện thật nhiều cho chúng con.”
Cha Phanxicô Xaviê Chia Sẻ Những Ước Nguyện Của Người Dân tộc K’Ho.
Tiếp nối với bài chia sẻ của cha Phanxicô Xaviê, một trưởng Ban Loan Báo Tin Mừng của giáo xứ Đông Sơn thuộc dân tộc Êđê cũng đã đứng lên chia sẻ về những khó khăn của người dân tộc Êđê. Trưởng ban Loan Báo Tin Mừng cho biết: “Nhận thức của người Êđê còn rất thấp, tinh thần phục vụ chưa cao, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn, niềm tin tôn giáo chẳng có được bao nhiêu… Xin quý Cha, quý Sơ, quý ban ngành đoàn thể tiếp tục yêu thương nâng đỡ và cầu nguyện cho chúng con.”
Trưởng Ban Loan Báo Tin Mừng Chia Sẻ Những Khó Khăn Của Người Êđê.
Chia tay với Ban Loan Báo Tin Mừng của giáo phận Ban Mê Thuột, chúng tôi lên đường đến với giáo xứ Êa Kmar. Êa Kmar là giáo xứ duy nhất của giáo phận Ban Mê Thuột toàn là người Công giáo thuộc dân tộc Êđê. Năm 1954, theo tiếng gọi của Chúa, linh mục thừa sai Claudio Roger Biancheetty cùng với cha Giuse Trịnh Chính Trực đã đặt chân lên buôn Eakhit để gieo Tin Mừng cho đồng bào Êđê. Năm 1957 giáo xứ Ea Khit được thành lập, nay là giáo xứ Êa Kmar.
Đến với giáo xứ Êa Kmar chúng tôi thấy được cảnh tượng mọi người đang tất bật, bất chấp những cơn mưa phùn, chuẩn bị hang đá cho Chúa Giáng Sinh. Hình ảnh những con người lam lũ, đóng khố đi chân trần đang cùng nhau làm hang đá khiến tôi tự hỏi: Họ đang trông chờ điều gì ở nơi hang đá này? Gió đông có bao giờ ấm áp cho những người đang phải sống kiếp sống nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc từng ngày hay không? Chắc có lẽ họ đã nhận ra sự ấm áp của mùa đông khi đến với Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ nên khuôn mặt của họ luôn thể hiện nét vui tươi ấm áp tình Chúa tình người.
Mọi Người Nghỉ Làm Hang Đá Để Tiếp Đón Các Cha
Rời Êa Kmar chúng tôi đến với dòng Nữ Vương Hòa Bình. Dòng Nữ Vương Hòa Bình được Đức Cha Paul Seitz Kim khai sinh vào ngày 1-9-1959 tại giáo xứ Tân Hương, giáo phận Kontum. Ngày 31- 05- 1969, qua văn thư của Tòa Thánh phê chuẩn, Đức Cha Phêrô Vũ Huy Mai đã công bố sắc lệnh thiết lập Hội dòng với danh xưng Chị Em Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình, quen gọi là Nữ Vương Hòa Bình. Dòng Nữ Vương Hòa Bình là dòng thuộc giáo phận, dưới sự hướng dẫn của vị chủ chăn giáo phận. Phương châm sống của dòng là: “Sống và truyền rao Tin Mừng Hoà Bình của Chúa Kitô cho mọi người theo gương Đức Maria, Nữ Vương Hoà Bình.” Và theo như lời của Đức Cha Vinh Sơn, các chị em sẽ dùng các đơn vị vừa giáo dục vừa làm kinh tế để làm cơ sở nuôi các cộng đoàn lo cho anh chị em sắc tộc. Một nhà trẻ 800 em thì sẽ hỗ trợ cho được 9 cộng đoàn lo cho người sắc tộc. Trong 2 năm vừa qua, các em nhà tập và đệ tử đi thực tập đều phải đi vào các buôn sắc tộc để học tiếng, để chia sẻ với người sắc tộc. Rất tiếc là có quá ít thời gian, nên các cha không có dịp để học hỏi tinh thần cũng như kinh nghiệm truyền giáo của các Sơ dòng Nữ Vương Hòa Bình.
Các Cha Đến Thăm Dòng Nữ Vương Hòa Bình
Sau khi chia tay Đức Cha Vinh Sơn, cha Tổng Đại Diện cùng các cha trong giáo phận Ban Mê Thuột, chúng tôi lại tiếp tục rong ruổi với hành trình dài 151 Km của quốc lộ 26. Không như “đại lộ kinh hoàng” hay “con đường rồng” mà chúng tôi đã trải qua. Quốc lộ 26 là một quốc lộ xứng với tên gọi: “cánh chim phượng hoàng.” Dọc hai bên đường là những thảm cỏ xanh tươi ngút ngàn cùng với những hàng dã quỳ vàng ươm uốn lượn dường như đang nâng niu từng bước chân của những người lữ khách. Đèo phượng hoàng không chỉ đẹp bởi sự hoang sơ với những tán cây nhiều tầng mà còn đẹp bởi sự sở hữu nhiều khúc cua cong cong thật lãng mạn. Con Dốc 47 không chỉ mê hoặc lòng người bởi những màu xanh non của đồng lúa, nhưng còn mê hoặc lòng người bởi những cảnh tượng, những chú bò thong dong gặm cỏ, những người nông dân yên bình trên đồng ruộng của mình. “Cỗ quan tài di động” cứ thế cho số mo ào ào xuống đèo qua dốc trong khi cảnh đẹp hai bên đường dường như đang níu kéo đôi chân chúng tôi. Và rồi, chúng tôi tự nhủ, truyền giáo là như thế. Truyền giáo không có điểm dừng. Mỗi bước chân của người truyền giáo đều mở ra những cảnh tượng mới đẹp hơn trước như cung đường phố núi Buôn Mê Thuột xuống thành phố biển Nha Trang. Nếu chỉ dừng chân ở một chỗ nhà truyền giáo sẽ không thấy hết được vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho con người.
Nha Trang, Tối Thứ 6 Và Sáng Thứ 7, Ngày 13 Tháng 12 Năm 2013
Đúng 19 giờ 00 chúng tôi có mặt ở phòng hội của Tòa Giám Mục Nha Trang để nghe Đức Cha Giuse Võ Đức Minh chia sẻ về tinh thần và kinh nghiệm truyền giáo của ngài. Để mở đầu cho buổi chia sẻ ngài mượn đoạn Lời Chúa trong Tin Mừng Luca 4, 16-21, “…Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Chúng ta làm gì thì làm đều phải nhìn vào mẫu gương là Chúa Giêsu. Chúng ta phải học theo cách thức mà Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta phải kín múc nguồn truyền giáo từ nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đọc lại đoạn văn trích từ tiên tri Isaia rồi công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm điều tai các ngươi vừa nghe.” Cho nên, để có thể đón nhận hồng ân của Thiên Chúa, để có thể loan báo Tin Mừng cho người nghèo, những người bị thiệt thòi, những người cần ơn cứu rỗi thì cần phải có sự chuẩn bị, hướng dẫn, hiện diện của Chúa Thánh Thần. Tất cả chỉ là những khí cụ mà Thiên Chúa dùng để làm cho Chúa lớn lên, để làm cho Tin Mừng được lớn lên. Tất cả các vị tông đồ sẽ qua đi, Chúa Giêsu lớn lên, Thánh Thần vẫn mãi làm chủ của việc Loan báo Tin Mừng. Như thế, chúng ta mới cảm nghiệm được điều mà Chúa Giêsu nói: “Khi đã làm tất cả mọi sự rồi, thì phải nói rằng, mình chỉ làm công việc của người tôi tớ.”
Ngài kể 1 câu chuyện có thật để chứng minh cho các cha thấy Chúa Thánh Thần làm việc chứ không phải chúng ta. Một hôm, ngài đến thêm sức cho 58 em dân tộc Rắc Lây. Ngài nhìn thấy trên trán của họ có xâm hình Thánh Giá. Hỏi ra mới biết rằng, khi cách mạng đưa họ lên núi, sợ mất đạo cho nên họ đã bảo nhau xâm hình Thánh Giá trên trán. Hơn 40 năm trời, cách biệt với thế giới bên ngoài, người chồng dạy đạo cho vợ, vợ chồng dạy cho con cái cứ như thế đến 3 đời. Hạt giống đức tin được nảy nở và lớn lên là nhờ vào Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần làm cho lớn lên. Chúng ta là những người đi gặt, thế hệ trước đã gieo trồng.
Chúa Thánh Thần cứ thổi. Chúng ta không biết Ngài thổi chúng ta đi đâu. Ngài sẽ phá vỡ sự an toàn của chúng ta. Ngài sẽ đưa chúng ta ra khỏi môi trường sống, khỏi hạnh phúc của mình. Nếu chúng ta không nhận ra sự hoạt động của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ rất dễ nổi loạn. Những cơn bách hại, những chống đối của các nhà cầm quyền, của nhóm này hay nhóm kia… đều có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Thánh Thần chính là người chủ và Thánh Thần sai đi qua các biến cố. Nhìn lại lịch sử Giáo hội Việt Nam chúng ta sẽ nhận ra được điều đó. Và như vậy, cách thức làm việc của Chúa Giêsu là, khi Thánh Thần xuất hiện thì Ngài mới bắt đầu chọn các môn đệ. Ngài không làm việc một mình. Ngài có những nhân sự để chia sẻ, để học, để đồng hành với Ngài; hay nói cách khác để Ngài cùng đồng hành và thông truyền sứ điệp niềm vui Tin mừng cho họ. Và, tiến trình loan báo Tin Mừng của Ngài khởi đi từ những người phận nhỏ, những người nghèo, những người bị bỏ rơi, những người bị thiệt thòi và bị thiệt thòi nhất vẫn là những người tội lỗi.
Đức Cha Giuse Chia Sẻ Về Tinh Thần và Kinh Nghiệm Truyền Giáo Của Ngài
Giáo phận Nha Trang có trên 300.000 người dân tộc thiểu số: Người Êđê khoảng 100.000, người Raglai 90.000, người Chăm khoảng 65.000, người K’ho khoảng 10.000 ngoài ra là người Tày, Nùng, Thái, Đan Hạ, H’mông… Thế nhưng, số người theo đạo Công giáo chỉ khoảng 10.000 người, một con số quá khiêm tốn. Đức Cha Giuse và các cha trong giáo phận Nha Trang đang nỗ lực trong công việc truyền giáo cho người dân tộc thiểu số. Một tương lai đang rực sáng, giáo phận vừa mới có 1 cha người Chăm và còn rất nhiều Thầy thuộc dân tộc thiểu số đang sinh hoạt tại Tòa giám mục cũng như ở Chủng Viện Sao Biển. Giáo phận đã có được 2 giáo xứ hoàn toàn là người Dân tộc thiểu số: Giáo xứ Bà Râu, Giáo xứ Tầm Ngân và trong tương lai “nếu ý Chúa muốn” sẽ có khoảng 10 nhà thờ nữa được hình thành ở vùng Khánh Vĩnh để phục vụ cho người Dân tộc thiểu số. Nguyện xin Thiên Chúa và Mẹ Maria chúc lành cho những tâm tư, ước nguyện của Đức Cha Giuse và của cả giáo phận Nha Trang.
Dâng Lễ Cầu Nguyện Cho Chủng Viện Sinmon Hòa Đàlạt
Được sự gợi ý của Đức Cha Giuse, trên đường từ Nha Trang về Đàlạt, chúng tôi đã ghé vào thăm giáo xứ Bà Râu. Bà Râu là cách nói trại của người Kinh từ tiếng Raglai B’rau. Theo như lời của Đức Cha Giuse thì Bà Râu là một giáo xứ hoàn toàn là người Dân tộc. Họ theo đạo ngay từ những năm 1930, năm 1960 trở thành giáo xứ. Linh mục Thừa sai Donatien Béliard (tên tiếng Việt là cố Phước) là vị linh mục tiên khởi. Năm 1974 thì ngài qua đời. Kể từ khi ngài qua đời thì giáo xứ không có chủ chăn. Mãi cho đến năm 2009, nhân một chuyến thăm chúc tết các Cấp chính quyền địa phương của Đức Cha Giuse, đôi bên đã hiểu nhau hơn và nhờ đó mà giáo xứ có cha và ngôi Thánh đường nguy nga lộng lẫy này mọc lên.
Cha Sở Giáo Xứ Bà Râu Chia Sẻ Những Khó Khăn Mà Giáo Xứ Đã Trải Qua.
Một thời gian dài không có chủ chăn, thế nhưng, hàng năm con số người theo đạo cũng vẫn gia tăng từ vài chục cho đến vài trăm người. Những con người thất học, chỉ biết một vài con chữ mà lại truyền đạo rất hay. Hết thế hệ này đến thế hệ khác, hết gia đình này đến gia đình khác, họ dạy cho nhau đọc kinh, dạy nhau ca tụng Thiên Chúa. Qủa thật là có bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa và Mẹ Maria.
Một Căn Nhà Trước Kia Vẫn Thường Dùng Để Hội Họp

Một thung lũng bằng phẳng, thanh bình, một ngôi nhà thờ nhỏ bé được bao bọc bởi những dãy núi uy nghi hùng dũng như hình ảnh của một người mẹ đang bao bọc những đứa con của mình. Và như vậy, cho dù có gặp phải những cơn bách hại, giáo xứ vẫn kiên cường qua mọi thời gian.
Chụp Hình Trước Khi Chia Tay
Kết thúc chuyến: “Hành Trình Theo Chân Các Nhà Truyền Giáo,”  mỗi người chúng tôi đều có cảm tưởng như mình vừa mới từ trong lò lửa truyền giáo bước ra. Mọi người đều rạo rực với tinh thần truyền giáo. Mọi người đều say sưa kể về những hy sinh và gian khổ của các nhà truyền giáo. Mọi người đều muốn làm một việc gì đó gọi là truyền giáo. Thế nhưng, những công việc thường ngày, nhất là những công việc chuẩn bị hang đá cho Chúa Giáng Sinh dường như đang cố gắng dập tắt đi những ngọn lửa truyền giáo đang bừng cháy trong chúng tôi. Cố che đậy, chúng tôi chỉ ao ước làm sao đưa được ngọn lửa truyền giáo về cho giáo dân của giáo xứ mình, đừng để tắt dọc đường. Và tôi suy nghĩ, nếu 40 cha đem được 40 ngọn lửa truyền giáo về cho giáo dân ở 40 giáo xứ, chắc chắn ngọn lửa sẽ bùng cháy rất lớn. Và như vậy, nhiều người sẽ không còn phải bước đi trong bóng đêm của tội lỗi và sự chết nữa. Nguyện xin Thiên Chúa và Mẹ Maria chúc lành cho những ước nguyện của mỗi người chúng con.

Bài viết: Lm. Johnbaptist
Hình ảnh: Lm. Phêrô Huỳnh Quang Vũ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét