Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

“Tự Vẫn” Nỗi Đau Của Người Ở Lại

“Trước đây, làng của con có nhiều người tự tử lắm! Nhưng từ khi có các cha, các thầy mang Tin Mừng của Chúa đến, chúng con tin tưởng nơi Chúa và không còn ai tự tử nữa”tuvan daubuon
NHỮNG CÂU CHUYỆN BUỒN
Vợ chồng anh dân tộc buồn bã đến gặp tôi vào một buổi sáng sớm. “Thầy ơi! Em của con uống thuốc sâu tự tử. Nó đang được cấp cứu ở bệnh viện Tỉnh. Bác sĩ bắt nó đóng tiền phạt, nhưng nó không có tiền. Con đưa nó hai triệu rồi. Con không còn đồng nào nữa. Thầy cho con ít tiền để đóng viện phí cho nó...” Anh buồn nói với tôi.
Dân làng KuTong vội vã báo tin:
“Thầy ơi, trong làng con vừa có một anh nhảy xuống giếng tự tử. Nó buồn chuyện gì đó. Chúng con nghe nói rằng nó uống rượu say về đòi tiền vợ để uống tiếp, nhưng vợ nó không cho. Thế là nó nhảy xuống giếng tự tử.”
Gần nhà nguyện K’mông, anh thanh niên đã có vợ hai con uống thuốc diệt cỏ tự tử. Cả làng chạy đến và đưa đi cấp cứu. May mắn là anh ta thoát chết. Tôi ngồi nghe dân làng kể: “Nó uống rượu về xin tiền vợ. Vợ nó la mắng. Nó buồn đi uống hóa chất diệt cỏ”
Ông Hin lấy vợ và sinh được ba đứa con. Gia đình nghèo không cho ông cái gì cả. Tất cả của cải hiện có là của gia đình vợ. Ông buồn tủi đi uống rượu suốt ngày. Vợ la rầy cả ngày. Ông buồn uống thuốc tự tử.
Ông Nơp ở làng Telung 3 buồn vợ, buồn con, ghen bóng ghen gió, uống thuốc sâu tự tử. Ông uống thuốc vào và ói ra. Con chó và đàn gà tội nghiệp thấy vậy chạy đến. Chúng lầm tưởng chủ nhà thương ói cho vài miếng mồi. Chúng đua nhau thưởng thức. Chúng không ngờ rằng thức ăn ấy rất độc. Chúng lăn đùng ra giữa sân, chết thê thảm.
Bác sĩ đang làm việc ở phòng cấp cứu bệnh viện tỉnh nói: “Không biết tại sao mà người dân tộc tử tử nhiều đến thế? Có 10 ca tự tử thì trong đó có 8 ca là người dân tộc. Thuốc mà họ thường dùng để tự tử là thuốc diệt cỏ”
Lần lượt qua một vài trường hợp người dân tộc tự tử, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về những lý do đưa dẫn họ đến con đường kết liễu cuộc đời này.
CÓ NHỮNG LÝ DO
Nhiều năm sống với đồng bào dân tộc Jrai, cha Nicôla Vũ Ngọc Hải đã có những nhận định về đời sống của đồng bào dân tộc Jrai khá sâu sắc như sau: “Gia đình anh em dân tộc căn bản vẫn thuộc về mẫu hệ. Người phụ nữ thường nắm giữ hầu hết kinh tế trong gia đình, phải lo hết mọi thứ. Người phụ nữ dân tộc rất lam lũ vất vả, đầu tắt mặt tối lo lắng trong ngoài, lắm lúc bà là người hoàn toàn nuôi sống gia đình. Tất cả việc nhà từ bếp núc, cơm nước, giã gạo, gùi nước, chặt củi, cho heo ăn, cho con bú…đều đổ lên đầu người vợ. Trong lúc đàn ông sống phụ thuộc, vô lo không tính toán, ít khi đếm xỉa tới chuyện nhà, chuyện con cái, ít chia sẻ gánh nặng gia đình với vợ, nhiều khi còn sáng say chiều xỉn hành hạ vợ con. Đi ngoài đường, thấy người vợ phải địu con, gùi củi, gồng gánh nặng nề đi trước, còn anh chồng thảnh thơi tay không đi sau, là chuyện bình thường. Gia đình dân tộc mặc dù vậy ít xảy ra chuyện vợ chồng bỏ nhau, gia đình chia ly tan vỡ, chính là nhờ sự đảm đang và vững vàng nhẫn nại của những người vợ. Điều này cũng ảnh hướng tới việc hình thành nhân cách của con cái trong nhà: ngay từ bé, các em gái đã được học để biết lo cho gia đình, lo học, chịu khó, trong lúc nhiều em trai vô tư ở không, có khi suốt ngày chẳng làm gì, chỉ tập tành hút thuốc, uống rượu, dễ trở thành hư hỏng. Các em gái trong làng vì thế thường mạnh mẽ dạn dĩ, lanh lẹ tháo vát, tham gia tích cực vào sinh hoạt chung nhiều hơn, trong lúc các bạn trai cùng tuổi lại tỏ ra nhút nhát, lười biếng, dễ đầu hàng trước cái xấu hơn. Chế độ “mẫu hệ” là một nét văn hoá độc đáo của người dân tộc nên trân trọng gìn giữ, nhất là trong một văn minh ngày càng quá “đàn ông” của thế giới hôm nay. Tuy nhiên, cần phải giáo dục, thích nghi tính mẫu hệ đó sao cho phù hợp với những giá trị Kitô giáo và nhân bản hôm nay, làm sao vừa đề cao vai trò và chỗ đứng người phụ nữ trong gia đình, vừa đừng để xảy ra cảnh đầy đọa người phụ nữ, và dung dưỡng cho những tính hư nết xấu của người đàn ông như hiện nay”.
Tôi tìm gặp một ông Ako khul, trưởng cộng đoàn công giáo. Khi tôi hỏi những lý do tại sao người dân tộc tự tử, ông chân thành tâm sự: “Theo tục lệ người dân tộc của chúng con, người vợ là người chủ trong gia đình. Người vợ quản lý tất cả mọi tài sản và làm tất cả mọi sự. Bởi thế, người chồng trong gia đình thường ăn nhậu nhiều, không chú tâm đến gia đình. Khi đã ăn uống no say, các ông lại đòi hỏi vợ cho tiền để ăn nhậu tiếp. Thường những lúc như vậy, người vợ la rầy...”.
Những người dân tộc khác tâm sự với tôi rằng nỗi đau lớn nhất mà chúng con gánh chịu là không còn đất đai để canh tác. Ngày xưa còn rừng nhiều, chúng con sướng lắm. Chúng con có của ăn của để. Bây giờ, rừng không còn nữa mà thay vào đó là cây cao su và cà phê của người kinh. Trong các làng người kinh đến ở và buôn bán. Người dân tộc không biết bán buôn, không hiểu tiếng kinh nhiều, thật thà cả tin, không có vốn để canh tác...
Một điều đặc biệt khác là các hủ tục của người Jrai vẫn còn giữ như ma chay, cưới hỏi, trả hiếu, cúng Giàng, bỏ mả...Đối với một số người dân tộc khá giả thì những phong tục ấy không có vấn đề gì. Nhưng đối với những người dân tộc nghèo thì đó là một gánh nặng vô cùng.
Một bệnh nhân của tôi qua đời tại Bệnh viện Chợ Rẩy, xe cứu thương đưa về đi ngang qua một làng khác. Sau khi chôn cất người thân, gia đình bị làng đó phạt một con heo to.
Tất cả những lý trên và những lý do khác nữa đã đưa dẫn đồng bào đến nỗi tuyệt vọng. Một cách nào đó, họ cảm thấy mình bị bỏ rơi và cô lập trong cộng đồng và gia đình.
NỖI ĐAU CỦA NGƯỜI Ở LẠI
Nỗi tuyệt vọng đã đưa họ đến việc kết liễu đời mình, nhưng nỗi đau vẫn còn để lại cho người thân.
Nếu người tự tử được đưa đến các bệnh viện để rửa ruột, họ phải chịu nộp phạt rất nhiều tiền và còn bị nói đủ điều.
Một khi người tự vẫn ra đi vĩnh viễn, họ hàng của người xấu số này sẽ phạt người còn sống. Họ cho rằng do người người còn sống đã làm cho người đó phải chết.
Hình phạt mà họ đưa ra là 1cái hòm đúc bằng xi măng, chăn mền, 1 con bò mẹ to, xây mộ, bỏ mả...Từng ấy thứ đã làm cho người còn sống mang một nỗi cơ cực, phải đi vay mượn khắp nơi với lãi cao.
Người còn sống đau đớn khi nhìn thấy người thân yêu ra đi vĩnh viễn và mang gánh nợ ngập đầu mà không biết bao giờ mới trả nỗi.
Đau khổ và nghèo đói đã đưa họ đến con đường tuyệt vọng. Những lúc như vậy, đâu là con đường giải phóng họ?
ÁNH SÁNG CỦA TIN MỪNG
Một anh Ako Khul chia sẻ: “trước đây, làng của con có nhiều người tự vẫn lắm! Nhưng từ khi có các cha, các thầy mang Tin Mừng của Chúa đến, chúng con tin tưởng nơi Chúa và không còn ai tự vẫn nữa”.
Các cha thầy Dòng Phanxicô đã hiện diện ở mảnh đất cao nguyên này gần 10 năm. Hàng tuần, có nhiều bà con dân tộc quỳ trước Bàn thờ để cầu nguyện và dâng ước nguyện theo đạo lên Chúa. Tôi thật sự xúc động khi nhìn thấy hình ảnh ấy, nhưng không giấu nỗi lo cho những phận người dân tộc đáng thương khác.
Các cha thầy đã gánh chịu bao nỗi vất vã trong công cuộc truyền giáo. Có lúc bị bắt và có lúc bị tra hỏi đủ điều. Nhưng các cha thầy vẫn can đảm hướng về phía trước để mang niềm hy vọng đến cho đồng bào dân tộc nghèo đáng thương.
Cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Vân Đông thường nói: “người ta cho, nhưng họ không thương. Còn mình thương lại chẳng không cho sao?”. Ưu tư của ngài đối với đồng bào nghèo cũng là ưu tư của anh em Phanxicô Thừa Sai Pleiku.
Cánh đồng rộng bao la. Lúa đã mọc xanh xen lẫn với nhiều hoa cỏ lạ. Tất cả đang chờ đợi những người thợ lành nghề mang Tin Mừng Phục Sinh đến cho bà con.
Khi đang viết phần kết của bài viết này, tôi lại nghe một em người dân tộc kể một câu chuyện buồn mới xảy ra: “làng con có một anh thanh niên lái xe đi chơi và bị ngã. Mẹ anh la rầy. Anh buồn đi uống rượu và uống thuốc sâu tự tử. Nhà anh không có tiền để đưa anh đi cấp cứu. Ba ngày sau, anh thanh niên đã qua đời trong nỗi đau tuyệt vọng của người thân...”
Tôi ước mong Tin Mừng của Chúa đến mỗi làng, mỗi nhà và mỗi người để không còn ai phải hủy bỏ cuộc đời của mình nữa.
Pleiku ngày 6/07/2014
Tu sĩ Phêrô Nguyễn Đình Phục, Ofm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét