Khai sinh bô lễ SÊRAPHIM
Cuối năm 1963, sau khi đi họp Công đồng
Vaticanô II (kỳ II/5) về, Đức cha Hiền, giám mục Đàlạt, kêu tôi tới Tòa giám Mục
để Ngài vừa thông tin vừa ra lệnh: “ Hiến chế phụng vụ là văn kiện đầu tiên của
Công đồng vừa được công bố, trong đó Giáo Hội cải tổ phụng vụ sao cho có thể
giúp giáo dân tham dự tích cực vào các lễ nghi phụng vụ. Cho nên sắp tới, giáo
hội sẽ cho hát lễ bằng tiếng Việt, cha liệu đặt nhạc cho tôi Kinh Thương xót,
Vinh danh…”. “Dạ thưa Đức cha, vâng, con sẽ cố gắng hết sức”. Trở về nhà xứ Đàlạt
tôi thấy lo lắng, băn khoăn. Nhưng Ngài ra lệnh rồi, không làm cũng không xong.
Nhưng lấy bản văn nào mà đặt nhạc đây, vì bản dịch trong sách lễ của nhà xuất bản
Hiện Tại, tái bản tại Sàigòn năm 1962 không phải là bản dịch chính thức. Rất
may chỉ một tháng sau (1/1964) là có cuộc Hội nghị thường niên của các giám mục
Việt Nam tại trung tâm Công giáo Sàigòn. Chiếu theo Hiến Chế Phụng Vụ số 22,2
nói về trách nhiệm của Hội đồng giám mục trong việc điều hành phụng vụ, các
giám mục đã kiện toàn tổ chức Hội đồng giám mục bằng việc bầu ra một Chủ tịch
và hai Tổng thư ký. Công việc tiếp theo của Hội nghị là “ủy nhiệm cho các cha
giáo sư Đại chủng việc Sàigòn tổ chức và điều hành Ủy ban Phụng vụ toàn quốc”.
Các vị này đã mau chóng bắt tay vào việc. Sau một thời gian ngắn, từ Sàigòn người
ta đã gửi cho tôi bản dịch phần thường lễ. Giáo hội Việt Nam hưởng ứng các quyết
định của Công đồng mau mắn như vậy đó.
Khi bắt đầu soạn nhạc thì không thấy khó
như mình tưởng. Tôi viết một mạch từ đầu tới cuối, hầu như không có sửa chữa.
Viết xong thì lại nhận được bản dịch mới từ Sàigòn gửi ra Đàlạt, có sửa lại vài
chữ. Không sao cả, tôi điều chỉnh lại bản nhạc rất nhanh, và bản nhạc mới còn
khá hơn bản trước nữa. Tôi nhờ mấy người trong ca đoàn Seraphim lo giúp thu âm
vào băng nhựa (cassette): anh Sơn, anh Minh lo máy ghi âm, còn cô Thủy thì lo
hát. Tiếng hát thật tốt và đúng tâm tình cầu nguyện. Do gợi ý của mấy anh chị ca
đoàn, tôi đặt tên tác phẩm này là Bộ lễ Séraphim. Tôi đem cuốn băng cassette
báo cáo cho Đức cha Hiền. Đức cha cho nhiều cha nghe để đánh giá và góp ý: cha
Lập viện trưởng Đại học Đàlạt, các cha trong ban giám đốc Giáo Hoàng học viện,
cha Dulucq dòng Lazariste và một số các cha khác, không thấy ai góp ý gì, tất cả
đều đồng ý cho sử dụng. Thế là cha Ngà cho hát tại nhà thờ Chánh tòa Đàlạt. Dân
chúng nghe rất mau thuộc.
Bộ lễ này vẫn được hát như thế từ năm 1964
cho đến nay (2011), trừ một vài thay đổi nhỏ thể theo bản dịch năm 2005 của Hội
đồng giám mục Việt Nam.
Thế rồi việc phải đến sẽ đến. Vào mùa chay
năm 1965, Đức cha Hiền lại kêu tôi sang Tòa giám mục: “Lần trước cha viết bộ lễ
được lắm đấy, vừa trang trọng, đơn giản như một bài bình ca, lại vừa rất tự
nhiên trong giọng điệu tiếng Việt. Lần này cha viết cho tôi các bài thương khó,
để lễ Lá tới đây ta hát cho giáo dân tham dự sốt sắng”. Tôi chậm rãi: “ Thưa Đức
cha, bộ lễ thì tương đối dễ, chứ Bài Thương Khó thì khó lắm”
Tôi trở về nhà xứ Đàlạt, băn khoăn hơn lần
trước. Vì dù sao thì bộ lễ cũng có bản dịch chính thức của Ủy Ban Phụng tự, chứ
Bài Thương Khó thì Ủy Ban vừa mới thành lập đâu đã dịch kịp được, Ủy Ban còn biết
bao nhiêu việc khác cần hơn. Thôi, tôi cứ bằng lòng với bản dịch Bài Thương Khó
trong sách lễ Hiện Tại vậy. Thế là tôi lại dấn thân vào một cuộc mạo hiểm thứ 2.
Tôi lên Giáo Hoàng học viện mượn cuốn Bài
Thương Khó bằng tiếng Latinh về nghiên cứu. Tôi nhận ra rằng các nhân vật trong
cuộc thương khó có thể xếp thành ba vai: 1/ Người kể chuyện, 2/ Chúa Giêsu, 3/
Tất cả các người khác như: Phêrô, Giuđa, Philato, Thượng tế… cả 3 vai đều dùng
quãng ba thứ: Người kể dùng La-Do, Chúa Giêsu dùng Re-Fa thấp, còn các người
khác dùng Re-Fa cao. Quãng ba thứ lại rất thích hợp với cung đọc kinh mùa thương
khó của giáo dân Việt Nam. Giọng kể hay nói của mỗi vai cứ lượn lên lượn xuống
theo quãng ba như trên một cái xà ngang, một trục ngang. Cả ba vai đều không
dùng công thức khởi đầu, nhưng mỗi vai đều có công thức kết thúc khác nhau. Thế
là tôi đã tìm được cái chìa khóa để mở vào căn nhà Thương khó. Không ngờ giải
pháp đó đã bước đầu đáp ứng nhu cầu. Ngày lễ Lá năm 1965, lần đầu tiên một Bài
Thương Khó tiếng Việt được hát lên trong nhà thờ Chánh tòa Đàlạt, mà vai Chúa
Giêsu lại chính là Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền. Giọng Ngài trầm ấm rất
thích hợp với vai này. Giáo dân ai cũng phấn khởi vì cũng được tham gia hát thoải
mái trong vai cộng đồng.
Sau lễ Lá, Đức cha Hiền lại gọi tôi: “Cứ
theo kiểu này, cha soạn tiếp cho tôi bài Exsultet (Mừng vui lên) tức bài công bố
tin mừng Phục Sinh, hát vào đêm thứ bảy Tuần Thánh.
Quả đây là một bài toán hóc búa. Vì bản
bình ca tiếng Latinh có nét nhạc rất trang trọng, rất hay, nhưng cũng rất phức
tạp. Nó vừa có giọng kể chuyện, công thức khởi đầu, công thức giữa câu, công thức
kết. Đối với tiếng ngoại quốc (Latinh, Ý, Anh hay Pháp) thì công thức gì cũng
không thành vấn đề, nhưng đối với tiếng Việt thì… Lạy Chúa tôi! Tôi cũng vẫn phải
dùng bản dịch của sách lễ Hiện Tại, là bản dịch duy nhất có vào thời điểm này. Vì
chưa tìm ra được một lối hát tương đương theo cung cách dân tộc, nên tôi vẫn phải
dùng giọng kể chuyện theo quãng ba thứ và thích ứng các công thức nương theo lối
hát bình ca của tiếng Latinh, là lối hát đã trải qua trên cả ngàn năm kinh nghiệm.
Tôi sợ rằng nhiều linh mục và phó tế sẽ vất vả lắm khi phải hát bài này. Và quả
thật, các cha phó ở nhà thờ Chánh tòa đều ái ngại khi nhìn thấy bản hát.
Cuối cùng chính tôi cũng phải đảm nhận hát
bài này lần đầu tiên tại nhà thờ xứ Thánh Nicola Đàlạt trong nghi thức vọng Phục
Sinh năm 1965.
Ghi lại ngày 01/09/2011, tại Đại Chủng viện
Sao Biển Nha Trang
Phaolô Nguyễn Văn Hòa
Nguyên phó xứ Chánh tòa Đàlạt
Nguyên giám mục Nha Trang
(Trích tập san NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG SERAPHIM)
Seraphim Dalat
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét