Hôm ấy mồng 9 tháng 2 năm 1818,
trời tờ mờ sáng, một bóng người tiến lên, với vẻ ngập ngừng bỡ ngỡ của một kẻ
mới đặt chân lên xứ này lần đầu tiên. Một chiếc xe “ba gác” rít lên từng
tiếng kẽo kẹt nặng nề chuyển bánh trên con đường làng gồ ghề và khúc khuỷu. Trên
xe chất đầy đồ đạc nghèo nàn của người lạ ấy: một chiếc giường cũ kỹ, một
rương đầy sách và vài thứ vặt vãnh khác.
Người khách lạ vóc người nhỏ bé,
nhưng trên khuôn mặt xương xương kia nổi bật lên đôi mắt xanh và sáng lạ
thường.
Người khách gợi chuyện hỏi các em
bé mục đồng đang lùa bầy chiên ra đồng. Các em nhìn nhau ý chừng không hiểu,
vì tiếng khác lạ kia không phải thứ tiếng địa phương các em thường nói. Nhưng
rồi một em đoán ra được câu hỏi của ông khách, đưa tay chỉ về phía những túp
nhà chìm trong sương mờ và nói: “Ông đi về phía này, làng nằm kia, ngay sau
quả đồi”.
Người khách lạ hỏi đường đó chính
là cha Gioan Maria Viannê. Người được lệnh Đức Giám mục về quản nhiệm giáo xứ
Ars.
Gioan
Maria sinh ngày mồng 08 tháng 5 năm 1786. Cha mẹ ngài là ông Mathêu và bà
Maria Viannê, là những người dân quê chất phác ở Đardili, gần thành phố Lyon. Hai ông bà được sáu người con, mà Gioan Maria là
con thứ tư.
Gioan được chịu phép rửa tội chính
ngày vừa chào đời. Từ ngày còn bé, sống giữa cảnh loạn ly thời cách mạng,
Gioan Maria đã được chứng kiến biết bao gương tích anh hùng vì đức tin.
Trên lãnh thổ Pháp, tiếng chuông
nhà thờ im bặt, không còn giờ xem lễ, cầu kinh. Ngày Chúa nhật được đổi sang
tên khác, các linh mục bị lùng bắt. Tuy nhiên, bất chấp mọi nguy hiểm cho
tính mạng, một số linh mục cải trang làm thường dân, lén lút đi về các miền
quê để cho xưng tội, rước lễ và ban các phép bí tích.
Giữa bóng đêm dày đặc, cùng với
bao nhiêu người khác. Gia đình Viannê thường đến dự lễ trong một lẫm lúa, vì
hoàn cảnh đã biến thành ngôi nhà thờ.
Thời
gian thấm thoát qua, Gioan Maria lên 11 tuổi. Bỗng một hôm có một vị linh
mục, cha Grôboz, lén lút tạt vào nhà ông Viannê. Nhìn thấy cậu bé có lòng
đạo, cha đã cho cậu xưng tội lần đầu, và tháng 5 năm 1798 bà mẹ Gioan dẫn cậu
sang nhà bà dì ở làng Ecully bên cạnh. Ở đây Gioan được hai bà phước đang ẩn
trốn trong làng dạy sách phần để dọn mình rước lễ lần đầu.
Mùa xuân năm 1799, Gioan được chịu
lễ lần đầu. Hôm ấy, 16 em tề tựu trong một căn phòng cửa đóng kín như bưng. Bên
ngoài người ta còn cẩn thận đặt những cỗ xe chất đầy rơm. Trong lúc vị linh
mục cử hành thánh lễ, một số người làm ra vẻ bận rộn với công việc hạ những
bó rơm xuống. Gioan Maria rước lễ một cách rất sốt sắng. Về sau, hồi tưởng
lại giây phút gặp gỡ lần đầu tiên với Chúa Giêsu, ngài đã phải kêu lên trong
một bài giảng: “Khi người ta rước lễ, người ta cảm thấy một cái gì lạ thường…
một vui sướng… một mùi hương… một sinh lực chuyển vận trong cả con người…” Và
thánh nhân đã giữ cho đến chết tràng chuỗi kỷ niệm ngày chịu lễ lần đầu.
Năm 1800, thanh bình trở lại trên
đất Pháp. Napôlêon nhận thấy: không có tôn giáo, không một tổ chức nào có thể
đứng vững và trường tồn được. Ông ký một hiệp ước với Toà Thánh Rôma, và ngày
18-4-1802, chuông nhà thờ Đức Bà, sau 10 năm im lặng đã reo vang để báo tin
ngày thanh bình trở lại.
Từ ngày còn thơ bé, Gioan Maria
nghe trong thâm tâm vang lên lời hằng sống của Thiên Chúa: “Hãy theo Ta”. Lời
ấy năm xưa trên biển hồ Tibêria đã làm cho Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan bỏ
mọi sự để theo Thầy.
Gioan Maria muốn làm linh mục,
muốn bỏ mọi sự để theo Thầy Chí Thánh. Thiện chí đối với cậu không thiếu,
nhưng cậu thiếu hết mọi hoàn cảnh thuận tiện để đạt đến mục đích ấy.
Cậu đã lên 17 tuổi. Vào cái tuổi
đáng lý ra phải học hết ban trung học, thì cậu mới học sơ qua ban tiểu học và
mới bắt đầu học La ngữ.
Thân mẫu cậu rất tán thành chí
nguyện của con, nhất là từ khi nghe con đưa ra lý do thúc đẩy mình đeo đuổi
ơn kêu gọi: Thưa mẹ, nếu con được làm linh mục, con sẽ cứu rất nhiều linh
hồn. Nhưng còn người cha? Ông Matthêu là một người nông dân rất có óc thực
tế. Lòng đạo đức không dẹp tan được những băn khoăn ông cảm thấy trước: Làm
linh mục nghĩa là gì? Những khoản chi phí lớn lao của những năm học tập,
nghĩa là gia đình mất một bàn tay cứng rắn có thể thay thế ông trong lúc tuổi
già sức yếu, là cái ảo mộng không thành người, dở dang nếu ngày kia lâm vào
cảnh nửa đường đứt gánh… Ông nhất quyết không chịu. Trong hai năm ông vẫn giữ
vững lập trường, cũng như Gioan vẫn bền lòng ôm ấp chí nguyện.
Chúa quan phòng không bỏ người
trông cậy.
Năm 1805, Gioan Maria xin được
phép cha mẹ sang ở với cha xứ Ecully, một người quen của gia đình. Cha Balley
là một linh mục rất sốt sắng. Việc đầu tiên của ngài khi đến nhậm xứ Ecully
là lập nên một trường nhà xứ để dọn một số con em dọn mình vào chủng viện. Gioan
Maria hăng hái bước chân vào lớp học. Nhưng cậu không khỏi tự thẹn khi nhìn
thấy bao con mắt tinh nghịch nhìn vào. Trong lớp học, cậu là người lớn hơn
cả. Các bạn chỉ là những thằng bé 13 tuổi mà cậu đã là một thanh niên hai
mươi tuổi. Các bạn tí hon ấy không thể nhịn cười khi thấy ông bạn cao ngất
nghểu kia cứ lạc lõng trong những cách chia, xướng động từ La ngữ. Ròng rã
mấy tháng học La ngữ, Gioan Maria vẫn không thấy tấn tới, mặc dầu cậu hết sức
học tập và hãm mình cầu nguyện. Năm 1806, Gioan xin phép cha sở đi kính viếng
mồ thánh Phanxicô Rêgis ở La Louvesc. Tay chống gậy, tay cầm tràng chuỗi, cậu
vượt khoảng đường dài một trăm cây số, vừa đi vừa xin ăn. Quỳ trước mồ thánh,
cậu chỉ xin một ơn “ơn học được Latinh vừa đủ để có thể học thần học”.
Sau cuộc kính viếng mồ thánh, cậu
cảm thấy can đảm để tiếp tục học cho bằng được những căn bản của La ngữ. Năm
1809, Napôlêon hạ lệnh tổng động viên để chinh phục Âu châu. Gioan Maria bị
gọi nhập ngũ. Nhưng sau một thời gian, nhờ thời cuộc đổi thay, Gioan lại được
may mắn trở về nhà.
Về đến làng cũ, Gioan Maria đau
đớn vì mẹ đã qua đời. Thầy xin được phép ông thân sinh cho tiếp tục học hành.
Cha Balley sung sướng tiếp nhận lại người học trò cũ nay đã ngoài 26 tuổi.
Năm 1818, Gioan được vào tiểu
chủng viện Verrières, và sau hai năm vất vả cố gắng, thầy cũng chỉ là một
chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy, hai năm sau Gioan cũng được gọi vào đại
chủng viện. Ở đây chuyển ngữ lại là tiếng Latinh, mà về môn này thầy lại rất
kém. Sau sáu tháng ở đại chủng viện, ban giám đốc nhận thấy không hy vọng nên
đã bảo thầy rút lui.
Nhưng cha Balley, người đỡ đầu cho
Gioan không thất vọng. Cha nhất quyết là Chúa gọi thầy làm linh mục. Hai thầy
trò lại chăm chú vào sách vở. Đến mùa thi, cha lên toà Giám mục xin cho thầy
được thi riêng ở ngay nhà xứ Ecully. Trong khung cảnh quen thuộc ấy, thầy
Gioan đã trả lời đúng các câu hỏi và ban giám khảo cũng được hài lòng.
Ngày 13-8-1815, trong nhà thờ Đại
chủng viện Grenoble, thầy Gioan Maria Viannê được thụ phong linh mục. Ít ngày
sau, cha được bổ nhiệm làm phó tại Ecully giúp cha Balley. Cha sung sướng gặp
lại vị ân nhân đã đưa mình đến bàn thờ Chúa.
Ngày đêm cha hăng hái lao mình vào
công việc cứu các linh hồn, vì đó chính là động lực thúc đẩy cha đến chức
linh mục.
Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua
đời. Trái với sự mong ước của giáo hữu Ecully, Cha Gioan không được bổ nhiệm
chính xứ Ecully, nhưng lại đổi về làm chính xứ giáo xứ Ars, một xứ nhỏ ở
Dombes. Ngày 9 tháng 02 năm 1818, cha lên đường đi nhận họ mới. Trên chiếc xe
nặng nề chuyển bánh đi trước, cha chất đầy đồ đạc nghèo nàn của cha: chiếc
giường cha Balley để lại, một rương sách, và vài đồ vặt vãnh.
Khi cha Gioan đến nhậm chức, Ars
là một giáo xứ không tiếng tăm và nhỏ bé vào bậc nhất trong địa phận. Người
du khách không bao giờ có can đảm đặt chân đến nơi xa lạ ấy. Nhưng Thiên Chúa
đã muốn dùng một linh mục rốt hèn, và cái làng nhỏ bé tối tăm kia để làm
những công việc cho cả thế giới phải kinh ngạc.
Về xứ không bao lâu, Cha Gioan
khám phá được ba cái tệ đoan trong họ Ars, cần phải bài trừ cho bằng được: đó
là sự thờ ơ việc đạo; thói quen làm việc ngày Chúa nhật; và nạn khiêu vũ.
Sau khi đã nhận định tình trạng
con chiên, cha Gioan bắt đầu một cuộc phục hưng toàn diện. Cuộc phục hưng
ngài phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt và máu.
Trong khi cả họ Ars còn đang triền
miên trong giấc ngủ, thì xuyên qua nghĩa địa giáo xứ nằm sát nách nhà thờ,
một ánh đèn lập loè tiến lên. Cha Gioan xách đèn từ nhà xứ ra nhà thờ. Mỗi
đêm ngài chỉ dành cho thể xác mà ngài gọi là cái thây ma của ngài một giờ
ngủ, nằm dài trên sàn ván. Đến trước cung thánh, ngài sấp mình xuống nền gạch
và than thở lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin ban cho xứ con ơn trở lại, con tình
nguyện chịu tất cả những gì Chúa muốn trong cả đời con!… chịu đau đớn trong
một trăm năm nữa, miễn là đoàn chiên con ăn năn trở lại”.
Nước măt thấm dần nền gạch, cha sở
nằm phục như vậy cho đến sáng.
Trong ngày, ngoài những lúc đi kẻ
liệt hoặc thăm viếng giáo hữu, cha Gioan ở lại trong nhà thờ. Có những ngày
ngài chỉ bước chân ra khỏi sau giờ kinh nguyện truyền tin buổi tối.
Để lời cầu xin thêm hiệu lực, cha
còn hãm mình rất nghiêm nhặt.
Ngài trả lại cho bá tước Ars những
bàn ghế ông dâng cúng, bố thí cho kẻ nghèo tấm nệm giường. Cả chiếc giường
nhiều khi ngài cũng không dùng tới. Ngài bày ra nhiều dụng cụ để hãm mình
phạt xác. Đêm nào ngài cũng đánh tội lâu giờ, trên tường còn loang lổ những
vết máu. Cha có một bà già giúp việc bếp núc, nhưng rồi cha cảm thấy không
cần đến sự giúp đỡ của bà, ngài cho bà nghỉ dài hạn. Chính cha tự nấu lấy một
nồi khoai rồi treo lên tường, lúc nào đói quá ngài lấy ra ăn một củ. Củ thứ
ba, theo ngài “chỉ để vui miệng”. Có khi ngài nhịn ăn hai ba ngày. Ngài để
khoai lâu đến nỗi những củ cuối cùng đều mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho
đến năm 1827, khi mà các chị ở Nhà Chúa Quan Phòng bắt đầu dọn bữa cho cha.
Cha hãm mình cầu nguyện xin cho
đoàn chiên ăn năn trở lại, vì cha cho rằng: nếu trong họ thiếu tình yêu Chúa
Giêsu, trách nhiệm đổ cả về mình.
Cha cũng nhận định rằng: cầu
nguyện, hãm mình phải đi trước, những lời nói và việc làm phải theo sau.
Để chống lại nạn thiếu học hỏi về
đạo, cha tổ chức dạy giáo lý cho trẻ em. Trong 27 năm, ngày nào cha cũng dạy
giáo lý, khiến cho các trẻ em được Đức cha địa phận ban khen là thông thạo
giáo lý nhất trong vùng.
Đối với người lớn, cha dùng bài
giảng ngày chúa nhật để dạy dỗ. Cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong
phòng áo bên cạnh Mình Thánh, cha viết bài giảng. Và trong đêm thứ bảy, rạng
sáng Chúa nhật cha thức để học và đọc to cả bài giảng hôm sau. Lên toà giảng,
với một giọng cao và mạnh, cha giảng dài đến ngót một giờ. Có người hỏi sao
khi cầu nguyện cha nói nhỏ mà lên toà giảng cha nói to thế! Thánh nhân trả
lời hóm hỉnh: “Vì khi tôi giảng, tôi phải nói cho những người điếc, người hay
ngủ gật, nhưng khi cầu nguyện, tôi nói với Chúa, Chúa không điếc”.
Để chống lại nạn làm việc xác ngày
Chúa nhật, cha Gioan nói trên toà giảng: “Ngày Chúa nhật là ngày của Chúa. Chúa
dựng nên các ngày trong tuần, Người có quyền giữ tất cả, Người ban cho anh em
sáu ngày, Người giữ lại ngày thứ bảy. Anh em có quyền nào để dùng đến ngày
không thuộc của anh em. Anh em biết của ăn trộm không bao giờ sinh lợi. Ngày
mà anh em ăn trộm của Chúa cũng không sinh lợi cho anh em. Tôi biết có hai
phương thế chắc chắn để trở nên nghèo khó: là làm việc xác ngày Chúa nhật và
lấy của kẻ khác”.
Nhất là thánh nhân thẳng tay, đả
phá tệ đoan khiêu vũ.
Một hôm cuộc khiêu vũ sắp bắt đầu…
Cha Gioan nghiêm nghị bước ra… tất cả ùa chạy như một đàn chim câu tán loạn. Lần
khác cha mua chuộc anh chàng đánh đàn bằng năm đồng bạc để anh rút lui. Ngài
còn lập nên hội Môi Khôi, tập họp các thiếu nữ đạo đức với mục đích chống lại
các cuộc khiêu vũ.
Cha cũng chúc dữ cho các quán
rượu: ai mở quán trong giáo xứ này sẽ sạt nghiệp. Đúng như lời tiên tri, bảy
quán rượu đều lần lượt phải đóng cửa giải nghệ.
Cha phải chiến đấu trong 10 năm
mới triệt hẳn nạn khiêu vũ.
Cha tu bổ lại ngôi nhà thờ xứ, mua
sắm những lễ phục tốt đẹp để làm tăng vẻ long trọng của nghi lễ. Cha lập
nhiều hội đoàn như hội Thánh Thể để nuôi lòng sốt sắng củ giáo hữu. Cha còn
lập ra hai nhà dục anh, dành cho các trẻ mồ côi nam nữ. Không bao lâu cha
chiếm được lòng của toàn thể con chiên. Cả họ sung sướng và hân hạnh vì được
một cha sở thánh.
Cha Gioan đã hoán cải họ Ars trở
nên một họ đạo sốt sắng. Ảnh hưởng của thánh nhân vượt ra khỏi ngôi làng bé
nhỏ ấy và lan tràn khắp nơi. Không bao lâu, từng đoàn người kéo đến họ Ars,
và ai ai cũng muốn được quỳ dưới chân thánh nhân để lãnh ơn giải tội. Tuy
nhiên, cha không bao giờ phàn nàn. Để làm vui lòng mọi người, cha phải ngồi
toà 11-12 tiếng mỗi ngày trong mùa đông, và 16-18 giờ trong mùa hè, giữa tiết
đông lạnh lẽo cũng như trong ngày oi bức…
Giáo dân chờ chực trước toà nhiều
lần phải ra ngoài để đổi khí, duy chỉ có thánh nhân là đành giam mình trong
toà giải tội liên tiếp đến 11 giờ trưa, và buổi chiều từ 01 giờ đến 8 giờ
tối, và như vậy trong vòng 20 năm ròng rã. Với hết mọi người, cha tỏ ra rất
nhã nhặn, chỉ nói những gì cần phải nói và ban phép giải tội. Ai cũng cảm
động khi nghe ngài nói: “Hỡi con, hãy yêu mến, hãy yêu mến Chúa cho nhiều”. Nhờ
Chúa Thánh Thần soi sáng, thánh nhân nhận ra giữa đám đông ai là người cần
phải vào toà cáo giải hơn cả.
Một hôm, cha gặp một du khách đến
Ars để bắn chim hơn là để xưng tội. Ông đem theo một con chó săn rất đẹp.
Thánh nhân nhìn ông và nói: “Ông có một con chó đẹp thật, nhưng linh hồn thì
không đẹp chút nào”. Người du khách cúi mặt xuống, vào nhà thờ và xưng tội.
Với thời gian, ngài cảm thấy đứng
đầu một giáo xứ là một trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa, nên đã hai lần
ngài nhất quyết bỏ họ trốn đi. Lần kia, trong lúc cả xứ đang đắm chìm trong
giấc ngủ, thánh nhân tay cầm sách nguyện, tay xách một gói đồ, dấn mình vào
trong đêm tối với ý định vào ẩn thân trong một khổ tu viện. Nhưng chẳng may
có người biết được. Chuông nhà thờ đổ hồi như có đám cháy… cả xứ ra chặn đường.
Bắt cha sở phải trở về với đoàn chiên.
Đối với thánh nhân, chỉ có các
linh hồn là đáng kể: mọi danh vọng bên ngoài, ngài không bao giờ chú ý đến. Trái
lại, suốt đời thánh nhân, chỉ một niềm yêu mến đức khó nghèo và quý chuộng
những người nghèo khó. Đồ dùng của ngài rất đơn sơ. Để dùng bữa, ngài chỉ cần
một cái đĩa và một cái muỗm. Người ta biếu thánh nhân một bộ tách khá đẹp. Người
giúp việc rất lấy làm ngạc nhiên, khi thấy những mảnh sành nằm la liệt dưới
đất. Thánh nhân chỉ mỉm cười và nói: “Trong nhà tôi, tôi có quyền ăn ở nghèo
khó”.
Lúc còn làm phó ở Ecully, một hôm
cha Balley nhờ cha Gioan đi thăm một vị ân nhân ở Lyon. Trước khi ra đi, cha
xứ còn bảo cha Gioan phải mặc cái quần mới người ta vừa biếu cho lịch sự. Đến
chiều, cha Gioan trở về mặc cái quần cũ rích. Cha sở hỏi chiếc quần mới đâu?
Cha Gioan cho biết là qua đường, cha gặp một người nghèo khó, cha thương hại
và đã đổi cho y chiếc quần mới.
Thánh nhân cũng được ơn biết các
việc ngoại lai cũng như quá khứ. Một hôm, cha Guillaumet đi viếng xứ Ars.
Trong toa xe lửa, hành khách bàn tán về những việc lạ xảy ra ở làng bé nhỏ
ấy. Trước mắt cha có một bà ăn mặc màu đen đang ngồi chăm chú nghe. Đến ga
Vifrance cha Guillaumet sửa soạn bước xuống thì bà khách xin cha cho mình
được theo cha đến Ars. Bà nói: “Con đi giải trí”. Cha Guillaumet đồng ý dẫn
bà đến Ars. Lúc ấy là 11 giờ trưa, thánh nhân vừa dạy giáo lý xong. Cùng với
đoàn giáo lữ, cha và bà kia đứng chờ giữa đường vào nhà xứ. Thánh nhân ở nhà
thờ bước ra. Đoàn giáo lữ quỳ xuống, thánh nhân từ từ tiến lên, đứng trước bà
kia, cha cúi xuống nói vào tai bà: “Ông ấy được rỗi”. Bà kia tỏ vẻ ngạc nhiên
không muốn tin. Thánh nhân nhấn mạnh: “Tôi đã bảo bà là ông ấy được rỗi. Ông
hiện đang ở trong luyện ngục, phải cầu nguyện cho ông. Giữa thành cầu và
giòng nước, ông đã ăn năn tội kịp. Đức Mẹ đã ban ơn ấy cho ông. Bà không nhớ
bàn thờ tháng Đức Mẹ, bà dọn trong phòng bà sao? Một hai khi, chồng bà mặc
dầu không giữ đạo, cũng đã hiệp ý cầu nguyện với bà. Việc ấy đã đáng Đức Mẹ
thương ban cho ông ơn ăn năn trong giây phút cuối cùng”.
Cha Guillaumet nghe rõ, nhưng
không hiểu chuyện gì. Sau khi đã cầu nguyện lâu giờ trước bàn thờ Đức Mẹ, bà
kia mới kể cho cha nghe câu chuyện về cái chết của chồng bà.
Ngoài ra, thánh nhân cũng đã làm
nhiều phép lạ, nhưng vì khiêm tốn, ngài thường bảo là nhờ quyền phép thánh
Philômêna. Trong nhà thờ Ars, có một bàn thờ dâng kính thánh nữ, và theo lời
cha xứ, nhiều bệnh nhân đến cầu nguyện và được khỏi.
Đời sống cha Gioan Maria Viannê
như thế quả là một tấm gương tận tụy vì Chúa và các linh hồn, đúng như lời
thánh nhân vẫn thường nói: “Hạnh phúc cho một vị linh mục được chết kiệt sức
vì giúp việc Chúa và các linh hồn”.
Hạnh phúc ấy đã đến với thánh nhân
tháng 8 năm 1859. Ngày 02 tháng 8 thánh nhân đã chịu các phép cuối cùng. Ngài
than thở: “Thật Chúa tốt lành quá, khi tôi không đến với Chúa được, thì Chúa
đến với tôi”.
Sáu giờ sáng ngày 04 tháng 8 năm
1859, lúc vị linh mục đọc kinh cầu cho kẻ hấp hối đến câu: “Xin các thiên
thần Chúa đến rước linh hồn vào thành thánh Giêrusalem”, thánh nhân trút linh
hồn một cách rất êm ái. Thánh nhân hưởng thọ 73 tuổi, 02 tháng 27 ngày. Làm
chính xứ giáo Ars được 41 năm, 5 tháng, và 23 ngày.
Tin thánh nhân qua đời do điện tín
truyền đi đã lôi kéo cả một biển người đổ xô về Ars. Đoàn giáo lữ đã diễn qua
trước xác thánh trong 48 tiếng đồng hồ.
Chính Đức Giám mục địa phận đã đến
dự lễ an táng và đọc bài điếu văn, trong đó ngài nhấn mạnh rằng: hằng bao thế
kỷ mới được thấy một cuộc đời linh mục như vậy. Thánh nhân được chôn cất
trong nhà nguyện thánh Gioan Tiền hô, bên cạnh toà giải tội mà người ta đã
gọi là “Phép lạ lớn nhất ở Ars”.
Từ ngày ấy, bao nhiêu linh mục,
Giám mục, Hồng Y đã đến quỳ cầu nguyện và đặt những cái hôn thành kính lên
viên đá mồ.
Ngày 31.5.1925, thánh nhân được
phong hiển thánh, và năm 1929, thánh Gioan Viannê được đặt làm thánh bổn mạng
của toàn thể các cha xứ trên hoàn cầu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét