Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

THÁNH ANPHONGSÔ MARIA LIGÔRIÔ-Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế.

THÁNH ANPHONGSÔ MARIA LIGÔRIÔ

Ngày 1 tháng 8
GIÁM MỤC TIẾN SĨ HỘI THÁNH (1696-1787)

Ngày 27 tháng 9 năm 1696, tại Marinella gần thị trấn Napôli, một hài nhi vừa cất tiếng chào đời. Bề ngoài cũng như bao hài nhi khác, nhưng bên trong hài nhi đó đã được Thiên Chúa chúc phúc và tiền định cho một sứ mệnh cao cả: Giám Mục và Tiến sĩ Hội thánh. Hài nhi đó chính là Anphongsô Ligôriô.
Cha mẹ cậu thuộc dòng dõi quý tộc: quyền uy cũng như của cải đều dư thừa, nhưng không vì thế mà kém sút bề đạo hạnh. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã đoái thương cho hai ông bà được phúc sinh hạ một đấng thánh.
Nhờ được người mẹ đạo đức giáo huấn, nên ngay từ hồi còn thơ ấu, Anphongsô đã chứng tỏ là một thiếu nhi nết na và có một tâm hồn mến Chúa đặc biệt, lại rất kính mến Chúa Giêsu ngự trong phép Thánh Thể và Đức Mẹ Maria đồng trinh. Chính với tâm tình mến Chúa yêu Mẹ đã nên như kim chỉ nam cho tất cả cuộc đời của cậu trên bước đường thánh thiện và hoạt động tông đồ về sau.
Anphongsô được đi học rất sớm, và vì siêng năng nên có thể nói cậu trội về hết mọi môn, đặc biệt môn văn chương và âm nhạc. Mới mười sáu tuổi, sinh viên ưu tú Anphongsô đã giật được bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật. Thân phụ Anphongsô cho con theo đuổi nghề luật sư, và chỉ sau một thời gian ngắn, trạng sư Anphongsô đã trở nên một luật sư lỗi lạc tại thành phố Napôli. Suốt mười năm trường sống trong nghề luật sư, Anphongsô đã tỏ ra là người công bình liêm khiết, và quãng thời gian đó Thiên Chúa như muốn dùng Ngài làm một tấm gương phản chiếu sự đạo đức thánh thiện giữa một thế giới ham danh chuộng lợi.
Tuy nhiên, mặc dầu cố gắng sống đời đạo đức thánh thiện, Anphongsô cũng cảm thấy sa sút trên bước đường thiêng liêng. Những đám hội hè, những quyến rũ của thế gian, những lời ca tụng của người đời đều là những cản trở bóp nghẹt đời sống thiêng liêng của Anphongsô. Nhưng nhờ ơn Chúa, ngài vẫn hết tâm đề cao cảnh giác hầu tránh những dịp sa ngã nặng nề. Thế rồi chẳng bao lâu, chính Thiên Chúa sẽ can thiệp để đem người con nhiệt thành ra khỏi nơi nguy hiểm. Năm 1722 một người bạn mời Anphongsô đi tĩnh tâm mấy ngày, không chút ngần ngại, Anphongsô nhận lời ngay, dù công việc đang vô cùng bề bộn. Chính trong dịp tĩnh tâm này, Anphongsô đã lấy lại được lòng sốt mến thuở xưa. Lòng mến Chúa ngự trong phép Thánh Thể lại bắt đầu chớm nở, và ngài tự hứa sẽ dự lễ hằng ngày, và cứ mỗi tuần xưng tội một lần…Ngày nào ngài cũng vào nhà thờ viếng Thánh Thể Chúa. Hình ảnh một thanh niên trí thức quỳ lâu giờ và sốt sắng trước nhà Tạm, đã gây một ấn tượng tốt đẹp nơi bất cứ ai được chứng kiến cái quang cảnh ấy.
Trước một thanh niên thông minh lịch thiệp, đạo đức như vậy, ai chẳng nghĩ rằng: rồi đây Anphongsô thế nào chẳng có một tương lai huy hoàng. Bởi đó, vô số gia đình quý phái ao ước cái hạnh phúc được Anphongsô làm rể. Nhưng Anphongsô lại không nghĩ tới truyện đó. Thực vậy, ngài đã quyết tâm dứt bỏ mọi sự để tận hiến cuộc đời phụng sự Chúa.
Một biến cố xảy đến khiến Anphongsô dứt khoát tư tưởng. Năm 1723, ngài nhận cãi cho một vụ kiện mà bị cáo là hầu tước miền Tuscia. Ngài dành hẳn một tháng trời để nghiên cứu vấn đề, và với sự xác tín thế nào cũng thắng, ngài hùng hồn biện hộ trước toà án với những lý chứng vững vàng. Dứt lời, mọi thính giả đều vỗ tay vang rền, và chính ông chánh án cũng tưởng phải xử án theo lời vị luật sư trẻ tuổi. Nhưng trong khi mọi người cũng như chính Anphongsô tưởng sẽ đắc thắng, thì vị luật sư cãi cho nguyên cáo đứng dậy. Miệng nở một nụ cười kiêu hãnh, ông lên tiếng bênh vực thân chủ và cho Anphongsô biết một khía cạnh chính yếu mà ngài đã quên không xét đến. Chính cái khía cạnh quan trọng ấy đã đánh đổ tất cả những lý luận hùng hồn của Anphongsô, và dĩ nhiên kết quả vụ kiện đã xoay chiều hẳn.
Trước tình thế ấy, Anphongsô như người bị sét đánh. Tuy nhiên, với tâm hồn chính trực, ngài không hề cãi lại và vui lòng nhận sự thất bại. Ngài chỉ đáp lại một cách khiêm tốn:
- Thưa quý vị, tôi đã lầm trong vụ này, xin quý vị tha lỗi.
Và bước ra khỏi toà án lẩm bẩm:
- Ôi thế gian giả trá, ta đã biết cái mặt thật của ngươi!…
Chúa Nhật 28 tháng 8 năm 1723, trong khi tận tâm săn sóc các bệnh nhân trong một phòng bệnh, Anphongsô nghe như có tiếng Chúa giục trong lòng: “Con còn ở thế gian này làm gì nữa?”
Anphongsô mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy dạy con làm tất cả những gì Chúa muốn”.
Ra khỏi bệnh viện, Anphongsô vào nhà thờ các cha dòng “Chuộc kẻ làm tôi” ở gần đấy. Ngài sấp mình thờ lạy Mình Thánh Chúa. Để tỏ lòng thành thật, ngài rút gươm ra, đem đặt trên bàn thờ Đức Mẹ. Nhưng để thực hiện ý định toàn hiến đó, Anphongsô đã gặp phải rất nhiều cản trở. Cản trở trước hết và mãnh liệt nhất là gia đình, nhất là cha ngài. Ông nhất định không nhượng bộ, nên tìm đủ cách, nhờ mọi bạn hữu cản ngăn không cho quý tử theo ơn thiên triệu. Nhưng trước ý chí cương quyết của Anphongsô, ông cụ đành nhượng bộ. Ông chỉ đòi một điều kiện là: con ông không được vào Hội Dòng Giảng Thuyết (Oratoire) và phải sống ở gia đình.
Được cha chấp thuận, Anphongsô như cởi mở tấm lòng, ngài lập tức bỏ ngay bộ áo quý tộc để mặc lấy bộ áo tu hành. Bây giờ Anphongsô mới bắt đầu học thần học, nhưng nhờ trí thông minh thầy học rất mau lẹ. Dầu bề bộn với sách vở, thầy cũng cố dành thời giờ cho những công tác bác ái. Thật là một cảnh tượng cảm động, khi thấy một thanh niên con nhà quyền quý từ bỏ tất cả một cuộc đời huy hoàng, để đi lang thang khắp phố xá tìm kiếm trẻ nhỏ đem vào nhà thờ dạy giáo lý cho chúng.
Để tỏ lòng kính mến Đức Mẹ, tuần nào thầy cũng ăn chay ngày thứ bảy. Nhìn cách sống khiêm cung với những đồ trang phục đơn sơ của thầy, các bạn cũ trong luật sư đoàn của thầy như tỏ vẻ khinh khi. Nhiều lần họ còn nói lời chê bai diễu cợt khiến thầy phải khổ tâm hết sức. Nhưng với ơn Chúa, thầy vui lòng chịu đựng để nên giống Chúa Giêsu hơn.
Ngày 21 tháng 12 năm 1726, là ngày vui mừng nhất đời thầy. Thầy được gọi chịu chức linh mục do chính Đức Hồng Y Lignatelli, Tổng Giám mục thành Napôli chủ phong.
Từ đây có thể nói rằng: cha Anphongsô đã dùng cả cuộc đời của mình để chuyên chú vào việc giảng dạy và khuyên bảo người ta tiến bước trên đường nhân đức. Chỉ có Chúa mới biết được số linh hồn đã nhờ lời cha mà trở lại, hay là được vững vàng hơn trên đường trọn lành.
Người người đều hâm mộ lời cha, cha giảng ở đâu là người ta ùn ùn kéo đến nghe ở đấy. Lời cha giảng vừa trang trọng, vừa sáng sủa đơn sơ hợp với mọi tâm hồn. Sau này chính cha đã nói: “Vị giảng thuyết không giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, mà lại giảng chính mình thì lỗi bổn phận và không đem lại kết quả nào”.
Ngày kia, đi qua một nhà thờ nhằm buổi chầu lượt, hầu tước Ligoriô liền ghé vào viếng Chúa. Không ngờ lúc đó Anphongsô đang hùng biện trên toà giảng. Khó chịu, ông toan bước ra. Nhưng cái tiếng quen thuộc của vị luật sư trẻ tuổi con ông xưa kia đã lôi kéo ông ở lại. Thế rồi, dần dần những lời thánh thiện phát ra từ toà giảng đã đánh động lòng ông, và nhờ ánh sáng Chúa soi dẫn, ông cảm thấy tâm hồn thổn thức, và rồi nước mắt chảy chan hòa. Sau bài giảng, ông tìm đến Anphongsô, ôm lấy con và nói trong nước mắt:
“Ôi con yêu dấu, con đã làm cho cha nhận biết Thiên Chúa, Anphongsô con cha, giờ đây cha rất vui sướng vì thấy con đã ôm ấp được một lý tưởng cao quý và cha xin lỗi con, vì trước kia cha đã làm phiền lòng con và dám chống lại ý Chúa”.
Ngoài việc đạo đức cho giáo dân trên toà giảng, cha Anphongsô còn đem lại an bình cho bao tâm hồn trong toà giải tội. Chính ngài đã nói: “Một linh hồn càng đi sâu vào nết xấu và càng bị giây tội lỗi trói buộc, thì càng phải cố gắng nhẫn nại đem họ ra khỏi nanh vuốt ma quỷ, và đặt họ vào cánh tay nhân lành của Chúa”. Ý tưởng đó làm kim chỉ nam cho hành động của ngài mỗi lần gặp một tội nhân muốn hối cải. Thái độ nhân từ của một người cha hằng thương yêu con cái tội lỗi của ngài, đã lôi cuốn không biết bao nhiêu người thuộc mọi giới, mọi giai cấp trong xã hội đến với ngài, để rồi nhờ ngài, họ sẽ quyết tâm chừa tội và sống một đời sống giáo hữu hoàn hảo. Riêng đối với giới lao động, ngài tổ chức cho họ những lớp giáo lý ban tối. Nhiều linh mục tận tâm và nhiều giáo hữu sốt sắng đã vui lòng cộng tác với cha để giúp đỡ những người lao động đó. Chẳng bao lâu, từ một vài nhóm nhỏ đã nẩy nở ra được hơn tám mươi tổ học tập, mà mỗi tổ gồm chừng một trăm ba mươi đến một trăm rưởi học viên. Ai nấy đều đua nhau học tập để được sống đời sống công giáo xứng đáng.
Với lòng nhiệt thành tông đồ, cha Anphongsô muốn ôm ấp mọi linh hồn trên thế giới, và vì thế, đã có lần ngài định đi truyền giáo ở các nước phương xa. Nhưng ngay lúc đó, một đàng vì cha linh hướng của ngài không tán thành ý định ấy, đàng khác chị dòng Maria Cêlêsta Costarôsa được Chúa soi sáng, đã quyết chắc với cha là Chúa muốn cha lập một hội dòng thừa sai, để giúp đỡ các linh hồn không được giảng dạy đạo lý. Cha Anphongsô cũng sợ hãi khi nghe những lời ấy. Ngài bắt đầu ăn chay cầu nguyện để được biết ý Chúa, và cuối cùng ngài biết thánh ý Chúa muốn ngài đảm nhiệm công việc nặng nề đó. Nhưng việc lập một dòng mới của ngài ngay từ đầu đã vấp phải nhiều khó khăn. Rất nhiều người phản đối, và hầu hết các bạn hữu đã bỏ không cộng rác với cha nữa.
Trước bao nhiêu khó khăn đó, cha Anphongsô chỉ biết chạy tới ẩn náu dưới cánh tay Mẹ Maria để xin Người ơn ban can và đảm nghị lực. Và ngài cứ vững tâm tiến bước. Nhờ ơn Chúa soi sáng, nhiều người, giáo sĩ cũng như giáo dân đã đến xin gia nhập dòng ngài, và chỉ ba năm sau Dòng ngài đã đặt được ba cơ sở. Việc huấn luyện các tập viện về phương diện đạo đức cũng như công tác truyền giáo là mối bận tâm nhất của vị Sáng lập dòng. Ngài đã nêu gương trong việc truyền bá Phúc âm trong nhiều địa phận, và kết quả ngài đem về cho Chúa thật khôn lường.
Mỗi khi đến giảng ở đâu, ngài cũng đọc kinh cầu Đức Mẹ, đoạn vào thờ lạy Thánh Thể, sau đó lên toà giảng kêu gọi giáo hữu sốt sắng hưởng ứng tuần đại phúc. Ngoài những bài giảng dạy tập thể, còn có những cuộc hội thảo dành riêng cho từng giới và từng tuổi đủ mọi trình độ… Đó là đường lối mà ngày nay ta vẫn thấy các con của ngài trung thành tuân giữ.
Ngày 21 tháng 2 năm 1749, ngày vui mừng của vị lập Dòng, vì ngày đó Đức Thánh Cha Bênêdictô XIV châu phê Hội Dòng Chúa Cứu Thế. Và ngày nay, nhờ ơn che chở của vị Thánh Tổ, Dòng này đã lan tràn trên khắp thế giới, mưu ích cho các linh hồn rất nhiều.
Để thưởng công và cũng vì tin cậy ở tài đức của Cha Anphongsô, tháng 3 năm 1762, Đức Thánh Cha Clêmentê đã hạ sắc phong ngài lên chức Giám mục quản trị địa phận thánh Agatha. Cha Anphongsô cho mình là bất xứng, nên đã khiêm nhường viết thư xin Đức Thánh Cha tha miễn cho trọng trách đó, nhưng Đức Thánh Cha nhất định không nghe. Vì đức vâng lời ngài xin vui nhận, và ngày 20 tháng 6 năm 1767, ngài được tấn phong tại Rôma. Toàn thể địa phận thánh Agata đều hân hoan đón chào vị tân Giám mục về trị nhậm. Đức Giám mục Anphongsô quyết noi gương thánh Carôlô Bôrômê, ngài cải tổ chủng viện và hàng giáo sĩ, lập nhiều hội đoàn, cổ võ lòng sùng mộ Thánh Thể. Mỗi năm đi kinh lý một nửa địa phận. Đối với những kẻ khó nghèo ngài hằng ra sức cứu vớt, đến nỗi ngài đã bán hết mọi vật dụng để phân phát cho họ.
Sau mười năm ở chức vụ Giám mục, ngài cảm thấy sức lực đã suy yếu nên xin Đức Thánh Cha Piô VI cho về hưu dưỡng tại nhà Dòng Pagani cách Napôli độ năm dặm. Ngài rất sung sướng khi lại được trở về đoàn tụ với những người con thân yêu.
Tuy nhiên, những năm cuối cùng cuộc đời là những năm ngài phải chịu thử thách rất nhiều: nào là bị bách hại, chịu xỉ nhục, nào là bị cám dỗ, bị lo âu… nhưng cuối cùng Chúa đã ban bình an cho tôi tớ Chúa, và ngày 01 tháng 8 năm 1787, ngài an nghỉ một cách thánh thiện trong Chúa khi đã hưởng thọ được hơn chín mươi tuổi.
Sau khi tạ thế được một năm, Giáo hội đã mở cuộc điều tra để phong chân phước cho ngài, và ngày 6 tháng 9 năm 1816, ngài chính thức được tôn lên bậc chân phúc. Đức Thánh Cha Grêgôriô đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh ngày 26 tháng 5 năm 1839.
Ngay từ khi còn trẻ, thánh Anphongsô Ligoriô đã hứa sẽ không bao giờ để lãng phí thời giờ. Chính vì thế mà, mặc dù giữa bao công việc bề bộn, ngài cũng đã sáng tác được một số khá lớn tác phẩm tu đức, thần học, luân lý hay biện giáo rất giá trị, mà ngày nay vẫn còn lưu hành trong Giáo hội. Để ghi công ngài, Đức Thánh Cha Piô IX đã ra sắc chỉ ngày 07 tháng 7 năm 1871, tôn phong Ngài lên Tiến sĩ của toàn thể Giáo hội.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét